Cả nhà tôi đang ăn cơm
chợt con chó vàng hực lên một tiếng, xù lông cổ lao vọt ra cổng. Tôi chưa kịp
hiểu chuyện gì xảy ra thì thằng Lộc, cháu tôi đã vút qua bậu cửa, miệng thét
lạc cả giọng:
- Chó !
Đúng lúc ấy, tiếng con vàng,
oai vệ và hung dữ nhằm vào cái bóng lù mù, xù xì như một con bù nhìn di chuyển
chậm chạp vào giữa sân. Nó lao tới tính ăn tươi nuốt sống cái bóng bù xù đó,
nếu như không có thằng Lộc cho một cú song phi ngoạn mục vào mạng sườn. Mẹ tôi
chống đũa thở dài:
- Lại cái nhà ông Tân Chước. Rõ tội!
- Ai thế hả u?
- Anh không nhận ra ông
Chước à?
A! Thì ra anh Chước đây!
Tôi từng quen với những đổi thay nhiều cái ở đời, ở người, nên không kinh hãi
lắm khi nhìn thấy cái thân hình tiều tụy của anh ta, nhưng cứ nghĩ tới cái quá
vãng của anh lòng tôi lại ngùi ngùi. Cuộc đời này nó nhiều cái bi hài thật, mà
đúng ra cái phần hài nó nặng hơn cái bi nhiều lắm, có thế người ta mới sống nổi
chứ! Tôi buông đũa đứng dậy đón anh Tân Chước bước lên hè, chào thật to. Anh
ngẩng lên nhìn tôi bằng con mắt thắc lẻm, và cái giọng gằn ngặt:
-Ai thế?
Tôi cười không đáp, mẹ
tôi từ phía sau đỡ lời:
- Thằng bố Hoàng đấy ông
ạ!
Tôi toan thích thú chứng
kiến sự ngạc nhiên của anh, nhưng không, cái đụn giẻ hôi hám ấy lướt qua mặt tôi
vào thẳng bộ bàn ghế salon giữa nhà. Chắc là thành quen, thằng Lộc bỏ dở bát
cơm súc ấm pha chè. Tôi lặng lẽ ngồi đối diện với Tân Chước, còn mẹ tôi từ bên
giường nói vói qua:
-Bố Hoàng nó ở trong Nam ra
đấy, ông không nhận ra à?
-Về bao giờ?
Tôi không tin là anh hỏi
tôi, nhưng vẫn đáp:
-Dạ, em về chiều hôm
qua... Hồi này nhà bác làn ăn thế nào?
-Ờ hờ, cũng đang phấn
đấu...
Anh nhìn tôi bằng con mắt
lạ lắm, lạc đi trong phút chốc rồi cúi xuống cậy cái móng chân to như một cái
mai cua cẩm. Đất cát vãi ra trên mặt ghế... Thấy anh im lặng, tôi gợi chuyện:
-Bà cụ bác vẫn khỏe chứ?
Năm nay cụ cũng phải đến chín mươi...
Mẹ tôi xua xua tay, không biết có chuyện gì
nhưng thấy mặt Tân Chước tối sầm lại, tôi đâm lo lo. Ngồi một chốc, làm liền tù
tì ba bốn tách trà, Tân Chước đứng dậy, ra đến cửa còn dừng lại chỏi chỏi bàn
tay nứt nẻ về phía mẹ tôi:
- Cái mọ già nhà tôi vẫn
dất khoát không khai ra bà ạ. Tôi cũng
dất khóat rồi. Đừng có mà ú ớ việt gian với tôi là không xong đâu !
Tiễn Tân Chước về rồi, tôi
nhìn mẹ không hiểu câu chuyện thế nào. Mẹ tôi lặng lẽ lắc đầu ném miếng bã trầu
ra cửa sổ.
Tuổi tôi gọi Tân Chước
bằng anh, dù anh hơn tôi đến hơn chục tuổi. Chỉ biết rằng khi tôi lớn lên đã
thấy anh oai vệ lắm rồi. Dạo đó anh là công nhân khai khoáng ở mỏ Trái Hút, mà
sau này tôi biết đích xác là thợ đập đá. Mỗi lần anh về phép, đầu chải nước xà
phòng lật sang bên như người ta đánh dõng khoai, chân đi dép nhựa có quai hậu.
Thấy đám trẻ con chúng tôi chơi bi, chơi đáo, anh khinh khỉnh đi vòng tránh xa.
Ấy cũng có khi là anh sợ bị bẩn cái áo sơ-mi trắng có lót cổ bằng cái khăn
mù-soa cháo lòng. Còn chúng tôi , dù ở khá xa vẫn còn ngửi thấy cái mùi xà
phòng khen khét. Chính thế anh càng oai!
Anh là con một đích thực, nghĩa là không có cả chị em gái. Chínhh vì
vậy anh có mấy cái thế lợi. Thứ nhất anh không phải đi lính, và vì thế, thứ hai
anh đắt vợ. Vợ anh là chị Nhung làm nghề tráng bánh đa ở chợ Đồn. Sau này chợ
Đồn bị ghép vào với chợ Ba hàng làm chợ xép, chị cũng chuyển theo ra với chợ
chính, họp phiên hai ngày một-sáu và
bốn-chín. Theo tôi, chị Nhung tuy còn nhuộm răng đen (sau cạo đi nhưng cũng
không trắng lại được mà thành cải mả) nhưng là người rất đẹp. Trong lúc cả làng
nước làm ăn công điểm hợp tác thì chị có tiền mặt, lại có chồng là cán bộ, có
phiếu vải mua phíp, nên chị diện cứ gọi là ngất thời bấy giờ...
Chỉ có bà cụ Chước là
người lành quá, đâm khổ. Hồi trẻ bà vào
làm bồi giặt cho ông Tây Đùi-gà (có lẽ là Dugas?), chủ đồn điền Sơn Cốt,
sau có con bà làm luôn vú em cho cô
Mạt-sền, con gái ông ta. Người chị của Tân Chước chết yểu nghe bảo thiếu sữa,
nhưng chết vì bệnh đậu lào. Ông bố Tân Chước cũng mất sớm, bà cụ ở vậy nuôi con
từ năm mới có ngoài ba mươi.
Đấy, tất cả những điều
tôi biết về Tân Chước chỉ có thế, và nếu có thêm chút nữa thì là chuyện chị
Nhung bỏ anh đi theo tay lái xe Đoàn 10. Bà cụ Chước lụi cụi dẫn con cháu gái
mới lẫm đẫm biết đi về làng. Một bà cụ sống một cuộc đời tận cơ, tận cực ngót
nghét một thế kỷ nay rồi, là người cuối cùng của thế hệ mặc váy, liệu còn điều gì
nên nỗi mà ú ớ việt gian được nhỉ?
*
* *
Thường lệ, mỗi lần về nhà
tôi ghé thăm mấy người trong họ. Chẳng có nhiều thì giờ, cũng chỉ đáo qua những
người thân thích thôi. Nhưng kỳ này tiện ngõ tôi tạt vào nhà Tân Chước. Anh
không có nhà, còn bà cụ thì ngồi thụt cổ lại nhỏ tí trong góc bếp. Toàn thân bà
lão một màu xám tro, nhỉnh hơn con mèo, trông như một mớ giẻ bị lãng quên của
thời kinh tế nhạy. Bà cụ không nhận ra tôi, hay đúng ra không nhận được người la.
Xung quanh bà bây giờ chỉ có một hạng người, mà qua mấy câu thăm hỏi như quát,
bà rất sợ hãi.
- Mỗi bữa cụ ăn được mấy
bát cơm?
Như một chiếc máy tính
chạy quá tải, bà cụ xoay người vặn mình trả lời:
- Hai, có khi một, ông ạ.
Mà ông hỏi làm gì? Tôi chẳng còn nhớ gì cả đâu !
Có tiếng động ngoài cửa
bếp, tôi quay cổ nhìn ra. Trời ơi, một khuôn mặt thiếu nữ rạng rỡ hiện ra dưới
mái hiên rạ! Vẻ đẹp tươi trẻ thoang thoảng mùi hoa xoan như một làn sóng nhỏ
lay nhẹ vào nỗi buồn của tôi. Nỗi buồn vô duyên cớ !
- Anh ra chơi ! Cô gái
chào tôi bằng đúng cái giọng vùng quê nhà mà phải đi xa lắm quay về tôi mới
nhận ra cái riêng của nó. Tôi lặng lẽ lần bàn tay bà cụ Chước như bàn chân của
một con mèo già, khẳng khiu rồi đứng lên theo tiếng gọi của cô gái. Rất tư nhiên,
cô nắm tay tôi kéo thẳng lên nhà trên:
- Em biết anh về chơi,
hôm qua bố em về bảo thế. Em cũng định vào nhà thăm anh, nhưng không dám...
Thăm tôi ư? Lại có chuyện
đây! Trước mặt tôi, bên cạnh tôi là con bé Xuân, con gái Tân Chước, cái con bé
mà ngày hòa bình tôi từ mặt trận trở về nó hãy còn thò lò mũi xanh trèo tót vót
lên cây ổi trong chùa. Gần hai chục năm qua đi rồi còn gì, nó đã trở thành một
thiếu nữ.... Tôi không tìm được tính từ nào chính xác dành cho em, bé Xuân ạ...
Em mặc một chiếc đầm xanh màu đại dương, rất mốt. Hoá ra bà cụ Chước chưa phải
là người cuối cùng của thế hệ mặc váy.
- Thế nào, em làm gì?
Chồng con ra sao?
Xuân cười ngất, tiếng
cười thật trong, thật hồn nhiên, nhưng lập tức chùng xuống, lắng xuống một cách
cũng thật ngọt ngào:
- Chán lắm anh ạ, công
việc đã chán, chồng con cũng thế, càng chán. Em mới vừa ở trên Thái về hơn tuần
nay...
- Thế à, em làm gì trên
ấy?
- Em bán quán bia... Bia
ôm ấy anh ạ. Quán của mẹ em. Dạo này công an quần ác lắm, ế khách nên em về
thăm bà...
Tôi cố không làm ra vẻ
sửng sốt, nhưng trong bụng thật không sao tin nổi. Tôi lái câu chuyện theo
hướng bà cụ:
- Bà em già lắm rồi Xuân
nhỉ. Cụ lẫn rồi phải không?
Xuân di di cái móng tay
sơn hồng xuống cạnh bàn, lắc đầu:
- Vâng, già thì già quá
rồi đấy, sống nữa chỉ thêm khổ. Nhưng bảo lẫn thì cụ chưa lẫn đâu. Nhớ tài ra
phết đấy anh ạ !
- Này, Xuân có biết
chuyện gì không, hôm nọ bố em bảo với anh là bà cụ có điều gì mà ú ớ việt gian
thế hả em?
Xuân nhìn tôi ngờ vực:
- Em cũng không biết
nữa...
- Thôi vậy, anh về đây...
Tôi làm ra vẻ dỗi, nào ngờ Xuân đứng dậy nắm áo tôi :
- Anh ngồi chơi đã nào.
Bao nhiêu lâu em mới được nói chuyện với anh. Anh tưởng anh là người lớn quên
hết đám trẻ con trong làng phải không? Hôm nay bố em đi vắng đến tối không biết
có về không, em cũng không dám giữ anh ở lại ăn cơm. Nếu ở trên Thái, em sẽ
chiêu đãi anh một trận thật nhòe, đừng coi thường bọn em tỉnh lẻ nhớ! Còn ở
đây, quê nhà mình anh biết rồi chứ? Nhưng anh cứ ngồi chơi, em có chuyện muốn
hỏi anh, và em cũng sẽ kể cho anh nghe chuyện này, chuyện mà anh vừa hỏi...
*
* *
Từ biệt
Xuân, lòng tôi cứ gờn gợn một cái gì đó, vừa gai gai, nhưng nhức , lại
vừa man mác đa tình. Tôi không về nhà mà đánh một vòng qua phía sau làng. Nơi
đây thuở không xa lắm còn là một rừng thông ngan ngát gió. Những cây thông đại
thụ gần trăm tuổi, hai ba người đàn ông nắm tay nhau ôm chưa chắc đã khít vòng gốc. Bầu đàn thê tử
nhà thông này không biết ai trồng từ bao giờ, nhưng được chăm bón bằng một bãi
tha ma nhiều thế hệ người dân làng tôi. Có thể lắm chứ, những linh hồn cực nhọc
khi về thế giới bên kia còn gửi lại lời than thở qua tiếng gió. Gió rừng thông
kỳ lạ lắm, chỉ mới heo heo ngoài cánh đồng thì trong rừng thông đã nổi lên u u
rền rĩ. Nhưng bây giờ thì rừng thông đã biến mất. Người ta khai thác nhanh
chóng và triệt để hàng trăm cây thông từ mấy chục năm nay. Thế hệ những con bé
Xuân đã không còn được thấy nữa rồi. Cả bãi tha ma cũng chỉ còn lại ngôi mộ gạch của một ông Tây nào đó, nhưng
cũng sè sè một đống xi-moong xám ngắt. Kỳ lạ lắm, khi cây thông chết đi dù đã
lâu nhưng đất ở đây cứ sắt lại mọc độc một thứ cây hoa cứt lợn tây, và những
tùm cỏ ay áy vàng. Tôi bước qua một hàng rào nhỏ đi về phía cuối bãi, nơi giáp
giới cánh đồng. Đây, cái lùm cây âm u ngày xưa giờ là một mô đất cao non thước,
trơ lỳ màu vàng xám, lác đác xung quanh những bãi phân bò khô, và những con bọ
hung chăm chỉ. Chợt tôi rùng mình ngó dáo dác xung quanh. Không một bóng người,
không một tiếng động, một sự vắng lặng đến tê người. Tôi không dám chạy, nhưng
cũng không còn bình tĩnh được nữa, lật đật, cun cút rảo bước về làng.
Thì ra câu chuyện là như
thế này, Tân Chước thôi việc ở Trái Hút về làng, anh ta không chơi với ai,
không làm việc gì. Nửa năm sau anh lên vùng vàng Na Rì, nửa năm sau nữa, anh về
với một con người khác hẳn. Tóc rụng gần hết, chỉ còn ít sợi lơ thơ phủ xuống
con mắt bạc, la lét nhìn ra xung quanh... Móng chân, móng tay sưng vù lên, lúc
nào ruồi nhặng cũng bay vòng quanh. Đời đã tàn, anh luôn miệng nói thế. Mà còn
biết nói sao hơn khi đời anh tàn tạ thật! Nhưng... hóa ra đời anh chưa tàn,
chưa tàn là bởi vì anh nghe được câu chuyện sau đây, mà cũng chính là câu
chuyện Xuân vừa mới kể cho tôi nghe.
Ngày xưa, bà cụ Chước có
hai chị em gái, chị cũng xinh mà em cũng xinh. Năm mười sáu tuổi, cô em bị đem
bán cho nhà chú Khách ở chợ Đồn. Chú Khách này tử tế lắm, nuôi cô gái tận tình,
chăm chút chiều chuộng, quần là áo lượt, chân tay không đụng thứ việc gì. Để
làm gì? Không phải làm con sen, thì hay là vợ ba, vợ tư? Cũng không phải. Chú
Khách cho cô ở riêng một buồng, cấm cung. Đi một bước có ngưòi trông nom cẩn
thận. Cô đã đẹp, giờ càng đẹp, như cung tần mỹ nữ. Rồi đến một ngày kia, cô gái
biến mất. Bảo biến mất cũng không đúng, chú Khách có nói nửa kín, nửa hở là cho
cô về dưới xuôi, còn đi ngày nào, giờ nào không ai biết. Chỉ có người chị biết,
nhưng biết mà làm gì, để đến hơn bảy mươi năm sau, khi bà đã lẫn hết mọi
chuyện, mới là lúc nhớ lại, từng ly, từng tí. Người chị may cho em một cái túi
nhỏ bằng vải điều, bên trong đựng đầy vừng, và dặn:
-Nếu em bị đưa đi dâu vào
ban đêm, thì cứ vừa đi vừa lấy cái trâm cài đầu chọc cho cái túi này thủng.
Những hạt vừng sẽ rơi ra, nảy mầm để chị theo dấu tìm em...
Quả nhiên, người em được
cho ăn một bữa thật ngon, thật sang, rồi canh ba đêm ấy bị đưa về phía rừng
thông. Theo lời chị dặn, cô đâm thủng cái túi, những hạt vừng rơi ra, xuống cả
dưới chân cô. Sau đó cô được đưa xuống một cái hầm sâu có thắp những ngọn đèn
dầu lạc to tướng, đủ cháy ba ngày đêm. Trong lúc cô hoang mang thì hai người
đàn ông ấn cô xuống một cái ghế, và lập tức hai chân, hai tay, đầu và cổ bị
trói chặt vào ghế. Cô gái kêu lên thì một bàn tay đã giữ lại, nhét một thỏi sâm vào và một miếng vải trộn si nóng được gắn chặt
vào miệng. Cô gái trẻ đẹp lúc này hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt trợn
trừng, in bóng những ngọn đèn dầu lạc ánh lên tia nhìn tuyệt vọng. Lúc này chú
Khách mới quỳ xuống lạy cô bốn lạy, mà nói:
- Đừng oán ta, ta cần cô làm ma giữ của cho ta. Ta
phải làm như thế, cô phải chết oan như thế thì ma mới thiêng. Ba ngày sau cô sẽ
chết, và không có kẻ nào đến lấy của của ta được vì không biết tên tuổi, ngày
giờ mà khấn vong linh cô...
Có
nhiều tiếng lục cục, cửa hầm đã lấp.
Người
chị, tức bà cụ Tân Chước bây giờ, lần theo hướng rừng thông tìm em. Ngày thứ
nhất, những hạt vừng chưa nảy mầm. Ngày thứ hai, lác đác có những mầm trắng như
hạt tấm nhú lên, nhưng không thể tìm tiếp được vì quá ít. Ngày thứ ba, những
hạt vừng nở ra trắng xóa. Người chị cứ lần theo, lần theo... nhưng thưa dần,
rồi mất dấu. Chị khóc, khi nhìn thấy những con chim nhỏ nhảy nhót trước mặt.
Thôi, thế là bầy chim đã ăn hết những hạt vừng! Vừng
ơi! Hỡi vừng!
Ba ngày sau, cô gái chết
làm con ma giữ vàng cho chú Khách. Và sau làng tôi, cái nơi mà tôi vừa một mình
tha thẩn, vừa bổi hổi xao xuyến, vừa hoang mang sợ hãi ấy chính là cái nơi
người con gái, người dì ruột của Tân Chước đang làm thần giữ vàn cho chú Khách
nào đó!
Ông Tân Chước, con trai
của bà khi nghe câu chuyện này, lập tức chứa chan niềm hy vọng. Nhưng hỡi ơi,
trí nhớ của một bà cụ gần trăm tuổi đã tàn phai. Bà cụ không nhớ nổi tên người
em cũng như ngày tháng năm bà em bị đưa đi làm ma giữ của cho người. Hay cũng
có khi bà nhớ nhưng không muốn nói ra? Tân Chước hận lắm, nhưng càng truy bức
bà cụ càng sợ hãi, càng ú ớ việt gian!
*
* *
Tôi về nhà nằm, hai tay
ôm quặp lấy đầu, ngó ra cửa sổ sau nhà. Sau vườn, qua ao sen là con đường vào
Thác Nhái, vẫn thỉnh thoảng còn người lục cục máng xẻng vào bãi vàng La Lang.
Bây giờ còn thoi thóp lắm, nghe bảo chỗ ấy có một dạo người đông nghìn nghịt,
còn bằng mấy công trường thủy lợi Yên Khánh, hay hồ Núi Cốc! Nỗi nhớ thị thành
rộn rịp lại kéo đến. Quái lạ, nhiều lúc nhớ quê nhà đến thắt cả gan ruột, mà về
thì chỉ thấy buồn. Quê tôi buồn, có lẽ nó buồn nên nó làm tôi nhớ quay nhớ quắt!
Xuân ngồi bên cạnh, tôi
nghe tiếng em nghẹn ngào, mà nhìn vào cánh tay em, những sợi lông măng trên bắp
tay tròn, có mùi hương con gái. Thế rồi tôi ngoảnh đi cố nhìn lên cái con xỏ lỏng lẻo trên mái nhà
mà nghe em nói:
- Anh cho em đi theo anh
nhớ? Để nguyên em nói hết. Ở nhà có thể em cũng sẽ bị đem bán cho người ta, có điều chưa chắc đã
được một bữa ăn ngon để làm thần giữ của. Anh cho em là cái gì cũng được, là
người ở, là người làng, hay là vợ anh? Vợ không chính thức ấy mà, bây giờ người
ta hay có vợ kiểu đấy lắm...
Em cười thật thà quá, sao
bảo bán bia ôm mà lại có được cái kiểu
cười ấy à?
- Đừng có mà nói chuyện
trẻ con! Tôi nghiêm giọng.
- Vâng, em trẻ con thật,
trẻ con chán đời. Còn bà em thì lại sợ chết. Mỗi lần bố em tra khảo bà về câu
chuyện hầm của nào đấy của chú Khách, người bà co dúm lại, tội lắm. Cứ một hai
“ông tha cho con”. Mà không biết có hầm vàng không anh nhỉ? Có khi bà em bốc
phét đấy thôi, nhưng bố em thì lại cứ tin...
Có tiếng rít ư ử của con
vàng, thì ra tôi đã chợp mắt đi một chốc. Tôi dụi mắt nhìn ra. Bé Xuân đã vào
đến sân, mà sao con chó lại cứ thụt lùi thế kia? Tôi quát một tiếng nhỏ, con
vàng quay lại vẫy đuôi rồi lại nhìn Xuân. Xuân mặc quần jean xanh chật căng, cả
chiếc áo phông đỏ rực cũng chật, nhưng mềm mại, uyển chuyển. Chó ơi, mày khôn
quá, với một cô gái đẹp, mày cũng không nỡ sủa. Xuân ngơ ngác nhìn ra vườn, rồi
bất ngờ nhìn thẳng vào tôi giọng nghèn nghẹn:
- Anh không cho em theo
vào trong ấy thì thôi, em sang chào anh, mai em đi...
- Lên Thái với mẹ à?
-
Không, em sợ chỗ ấy lắm rồi!
-
Thế thì đi đâu?
-
Em cũng không biết nữa, nhưng em phải đi... Thôi, em
chào anh ạ!
Xuân nói xong rồi vội vã
đứng dậy, tôi lúng túng không biết làm gì, nhưng vẫn bảo:
- Chờ anh tí.
Tôi vào buồng, ngó quanh.
Đây rồi! Trong cái kẽ gạch trên tường có
chai vừng giống của mẹ tôi. Không chần chừ, tôi dốc hết chai vừng ra cái
khăn mù xoa, gói lại thành một gói tròn tròn rồi đem ra đưa cho Xuân. Em cầm
trong tay xoay xoay, ngước nhìn tôi đôi môi mấp máy:
- Cái gì thế?
- Vừng đấy!
Xuân nhìn tôi rơm rớm
nước mắt rồi bất thần vụt chạy ra cổng. Tôi đứng ngơ ngẩn nhìn theo cái vệt đỏ
lấp loáng sau hàng rào cúc tần đan dệt những
chùm dây tơ hồng vàng óng, nặng chĩu. Khi không còn gì để nhìn nữa, tôi
trở vào và chợt nhớ ra. Phải tìm cách nào để nói với mẹ về chai vừng giống bây
giờ?
1995
HOÀNG ĐÌNH QUANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét