Công
việc của tôi ở thành phố Hồ Chí Minh chưa lần nào lại vất vả như chuyến công
tác cuối năm này. Vụ việc phức tạp đến nỗi trưa ngày hăm bảy Tết mới họp để các
bên ký vào biên bản. Sự việc cũng không đơn giản, mặc dù trước đó, chúng tôi đã
phải vất vả hơn một tháng trời thu thập số liệu, chứng cứ để kết luận. Có người
ghé vào tai tôi: "Các ông nhè nhẹ tay một chút, vé máy bay ra Hà Nội đã
chuẩn bị sẵn rồi! Anh em trong này cố gắng để ông về ăn Tết với gia đình, một
cái tết xứng đáng với công lao của ông!". Tôi hiểu câu nói "chân
tình" này, nhưng không thể được. Họ cố tình rây rưa, trì hoãn để chúng tôi
nản lòng, chấp nhận một kết luận như ý họ. Chiều hăm tám, năm nay tháng Chạp
thiếu, thành ra hăm chín rồi, biên bản đã được ký nghiêm túc. Tôi thấy lòng nhẹ
nhõm, về phòng khách, nhìn giường chiếu
xếp gọn ngay ngắn, không có chăn màn, phích nước như mọi ngày, máy điện thoại
cũng đã gỡ. Họ đuổi mình đi đây, cũng phải thôi, công việc xong rồi, lại năm
hết tết đến, ai còn hầu mình nữa. Tôi hỏi chị phục vụ, nhưng chị tránh mặt, mãi
sau mới nói nhỏ: "Chú có ra Hà Nội thì đi lè lẹ lên!". "Sao vậy,
chị Ba?". "Tôi không biết, nhưng ngày mai là ba mươi rồi!".
Tình
cảnh của tôi lúc này mới đáng ngại làm sao, không còn vé máy bay, vé tàu cũng
không kịp ra trước tết. Lòng tôi như lửa đốt, không biết vợ tôi và hai cháu Tết
này, vắng tôi rồi ra sao? Chạy đến mấy chỗ quen biết, họ cũng nghỉ rồi, có gặp
được, họ cũng lắc đầu, chỉ được cái tốt mời nhậu. Nhưng lòng dạ tôi còn gì mà
uống, mà ăn...
Đang
thất thểu trên vỉa hè, chợt có chiếc ô tô du lịch biển số tư nhân đậu xịch
trước mặt tôi. Từ trong xe, một người đàn bà đẫy đà, nhô đầu qua cửa kính đon
đả:
-Cậu
Vận! Chết thôi, sao giờ này mà còn láng cháng ở đây?
Hóa
ra chị Ngọc, chị họ con ông bác ruột tôi.
-Công
việc sáng nay mới xong, em đi chạy vé máy bay nhưng không còn. Tôi nói gần như
mếu.
-Vào
đây, đứng ở ngoài ấy cho chết nắng. Chị nhích vào nhường chỗ cho tôi, rồi giục
tài xế. Chạy đi chú Triều, về qua công ty cái nhá. Tôi tưởng cậu ra lâu rồi kia
chứ? Làm cái gì? Làm lấy sống hay là làm lấy chết mà các cậu cố kiết thế? Liệu
có bỏ tù được hết cái đám ấy không? Thế thủ trưởng của cậu đâu mà đem con bỏ chợ thế này?
Trước
những câu hỏi dồn dập của người chị họ vốn tính tình đã táo tợn, bỗ bã, ruột
gan tôi lạnh toát:
-Họ
hứa mua giúp vé máy bay cho em, nhưng giờ chót...
Chị
Ngọc cười rung cả xe:
-Giờ
chót cậu cho họ vào xiếc chứ gì? Hèn nào, nó cho cậu đi máy ủi là phải. Tôi nói
thế có đúng không? Tôi nghiệp cậu em tôi, cán bộ nhà nước đã bạc cả đầu rồi mà
còn ngây thơ. Thôi, không tài nào kiếm nổi vé cho cậu được đâu, trừ phi cậu là
Tổng Bí thư hay Thủ tướng đi công cán thì họa may. Ở trong này ăn Tết với chị
một năm cho vui. Cũng là "đắm đò giặt mẹt", chứ bình thường ngày dưng
cậu còn ngại đến chỗ chị nữa là ngày tết...
-Em
lo quá, không biết tết nhất này, không có mình ở nhà, mẹ con các cháu xoay xở
ra sao...
-Cái
gì?
-Lại
còn họp họ nữa. Em nghe ông cụ Hoàn Cả nói năm nay muốn bổ sung cuốn gia phả.
Chị
Ngọc móc bao thuốc 555 ra rút một điếu rồi chìa cho tôi. Nghe tôi nói thế, chị
nhèn điếu thuốc ra khỏi miệng, nhổ phì phì rồi nhìn tôi với cái nhìn giễu cợt:
-Sao
cậu khéo lo thế? Gần chục năm cậu vào bộ đội, rồi đi B, đi C, mút chỉ cà tha,
dễ thường ở nhà người ta chết cả đấy? Nói cậu đừng giận, tôi là tôi nói thẳng,
nói thật. Cán bộ nhà nước các cậu quen thói dạy đời, coi mình là quan trọng
lắm. Đụng một tí thì bận quá, thì khó quá. Đến cả vợ con, cha mẹ, họ mạc cũng
phải nể vì, nhìn các cậu cứ như ông thánh ấy...
Tôi
nhìn chị, dở cười, dở mếu:
-Chị
cứ nói quá. Công việc nó vậy chứ nào ai muốn...
-Nói
chơi vậy thôi, tết này ở trong này cho nó biết mùi Tết Sài Gòn. Ngoài tết ít
người đi lại rồi tôi bảo chúng nó lấy vé cho mà ra. Đâu? Quần áo, tư trang để
đâu rồi? Nhà khách hả? Giờ này không biết có còn ma nào không. Cậu Triều này,
đưa chị em tôi về công ty rồi cậu chạy lên nhà khách Thủy sản lấy hành lý của
cậu Vận đem về giúp giùm chị nghe...
Cậu
lái xe còn trẻ, để hàng ria mép thưa thớt, khẽ gật đầu dạ. Tôi phân trần:
-Thế
cũng được, nhưng chị cho em về qua nhà khách để em chào mấy người phục vụ. Hơn
tháng trời, họ chăm lo hầu hạ mình, lẽ nào lúc chia tay không nói với nhau được
một câu chân tình...
Chị
Ngọc nhìn tôi cười ruồi ý nhị, tôi tảng lờ coi như không biết, không hiểu. Thế
là, sau gần hai chục năm thống nhất đất nước, lần đầu tiên tôi ăn Tết ở nhà chị
tôi và cũng là cái Tết đầu tiên ở Sài Gòn.
*
*
*
Sáng
mồng một, trời âm âm nóng. Tôi dậy sớm. Thật ra suốt đêm, từ sau giao thừa cho
tới sáng, tôi không tài nào ngủ được. Tôi vào toa-lét rửa mặt mũi rồi vào thắp
chín nén hương trên ba cái bát hương, khấn bác cả và ông bà nội. Chị Ngọc là
con gái bác Cả, anh ruột bố tôi. Năm 1954 bác đem cả nhà vào Nam, lúc ấy chị
Ngọc mới độ chín, mười tuổi còn anh Ngân mười bốn. Năm 1975, vợ chồng anh Ngân
cùng với bác gái di tản sang Mỹ, ở nhà còn bác trai và vợ chồng chị Ngọc . Mấy
năm sau bác Cả sống với bà vợ hai, rồi qua đời để lại bà vợ xấp xỉ tuổi chị
Ngọc một mình, không con cái. Bây giờ thì bà dì ghẻ ở với chị Ngọc, làm bà, làm
mẹ, làm bạn và làm người giúp việc trong nhà. Chị Ngọc thường đùa, chả biết
giữa em với dì ai đi trước ai? Thôi thì dì sống với nhà em và các cháu, ăn uống
chẳng bao nhiêu, sống chúng nó nuôi, chết chúng nó...thiêu! Bà chỉ cười, nom
tủi tủi. Thấy tôi về ăn tết với gia đình
chị Ngọc, bà rụt rè, lo giường chiếu, chăn màn, nước tắm cho tôi với một vẻ cúc
cung quá đáng, làm tôi cũng ngại. Tôi thì vẫn gọi bà là bác Cả cho thân tình.
Chị Ngọc lấy chồng là sĩ quan quân đội Sài Gòn, lúc giải phóng thành phố, anh
chồng về nhà ôm theo đứa con gái lớn đi di tản sang Mỹ. Mấy năm sau anh viết
thư về muốn xin cho chị đi theo diện đoàn tụ gia đình, chị viết thư trả lời
ngay. Trong thư chị bảo anh là ông có muốn đoàn tụ thì vế đây, chứ tôi không đi
đâu cả. Còn nếu ông sợ mẹ con tôi khổ thì có tiền gửi về, ông muốn lấy vợ thì
cứ lấy, chẳng phải ngại. Sao? Lại sợ chính quyền Mỹ không cho lấy vợ à? Rõ ngớ
ngẩn, hai nước đang ghét nhau dến đào đất đổ đi lại tôn trọng con dấu của nhau
đến thế kia à? Mà chính quyền Việt Nam đời nào lại xử cho tôi ly dị
ông khi tôi không muốn?
Khoảng mười giờ trưa, chị Ngọc dẫn đầu phái
đoàn đi chúc tết những người trong họ. Chị bảo: "Cậu Vận đi xe ô tô với
tôi và dì Nhẫn, còn tất cả đi bằng xe máy!". Trong lần ấy tôi mới thấy các
ông, các bà họ nhà tôi trong này ai cũng nể trọng chị Ngọc. Cũng đúng thôi, chị
tuy là gái nhưng con ông trưởng tộc, anh con trai lại đang lưu lạc xứ người.
Hơn nữa, tính tình chị giảo hoạt, quyền biến. Nhớ lần con gái chị lấy chồng bên
Mỹ, quay hẳn mấy cuộn băng vedéo gửi về cho mẹ. Chị ngồi xem được một chốc rồi
phảy tay đứng dậy:
-Tưởng
thế nào! Hoá ra bên Tây bên Mỹ cũng chẳng hơn gì bên ta. Chúng mày xem đấy, có
các vàng tao cũng chả đi. Ở bên này mà biết cách làm ra tiền lại chả sướng bằng
tiên.
Đoàn
người đi đến đâu trở ra lại nối thêm vào, rùng rùng toàn xe gắn máy. Hóa ra họ
hàng hang hốc nhà tôi cũng to thật. Mãi đến chiều tối mới về đến nhà chị Ngọc,
tôi mệt muốn bã cả người. Tết nhất gì mà trời đất nóng như rang như luộc, lại
rượu mạnh, thuốc thơm, đi đến nhà ai cũng kiểu cách, chỉ mong cho về đến nhà mà
tháo cái caravatte ra khỏi cổ... Tôi tắm rửa xong ngồi bó gối xem tivi. May
cũng nhờ có đài trung ương nên nhìn cảnh tết nhất ngoài bắc cũng đỡ buồn nhưng
lại càng nhớ nhà. Chị Ngọc thấy tôi ngồi ỉu xìu thì bảo:
-Nhớ
nhà, nhớ vợ con hả? Thôi, ngồi xuống đây làm mấy ván cho vui.
Cả
nhà bày ra đánh chắn, hai mẹ con chị Ngọc, bác cả Nhẫn, hãy còn thiếu một chân,
nên chị Ngọc vời mãi. Tôi không thích nhưng đánh chắn bằng quân bài tổ tôm thì
tôi cũng biết. Phải cái không thuộc quân nên cứ phải nhìn chữ, thành ra xòe bài
rộng quá, lộ hết. Kết thúc, mọi người đứng dậy vặn lưng rôm rốp, chị Ngọc thua
mất hơn trăm ngàn, chắc là con chị nó ăn. Tôi thì đánh kém, nên được mọi người
chiếu cố, chị Ngọc đặt tiền cho, nên không được, không thua. Bà cả Nhẫn cũng
khoe: "Năm mới thế mà may, tôi cũng ăn được hai chục, cậu ạ!".
*
* *
Tôi
nhờ chị Ngọc mua vé máy bay hộ để mùng ba hoặc mùng bốn quay ra Hà Nội, nhưng
chị giữ tôi lại:
-Mùng
bốn đi Chùa với chị, vui lắm. Chắc cậu thì chẳng tin vào chùa chiền đâu, nhưng
cứ đi cho biết, cho vui. Chùa này linh lắm lắm, cầu được ước thấy nhá! Năm nào
chị và mấy người bạn thân cũng phải đi bằng được. Mà ngôi chùa xây cũng đẹp,
cậu cũng nên đi cho biết...
Biết
chị có ý tốt, nhưng tôi nản quá, đến mức thôi đành chịu, chẳng nói, chẳng cãi,
chẳng tranh luận. Thế mới biết anh em tôi, họ hàng tôi đông đảo là thế nhưng
chẳng ai bằng chị Ngọc. Chúng tôi, phần đông làm việc nhà nước, lương lĩnh ba
cọc ba đồng, ai trông cũng đạo mạo, cũng bảnh bao như nhiều văn hoá lắm, nhưng
cứ hèn hèn thế nào. Nói năng lúc nào cũng cố giữ ý, giữ tứ, cũng sợ mất lòng
người nghe, nhưng hóa ra trêu ngươi thiên hạ. Mấy năm nay, sự đời cũng có cái
đổi thay, thành ra cái nghèo lòi đuôi ra, cố giữ sĩ diện mà không xong. Đã hèn
lại nghèo, cuối cùng rồi ai bảo sao cũng nghe, rõ tội.
Tôi
bảo chị Ngọc rằng tuy tôi không tin vào cái sự "cầu được, ước thấy"
nơi cửa Phật nhưng tôi không báng bổ chùa chiền, có lẽ cũng tại sợ. Tôi tôn
trọng Trời Phật là vì họ răn dạy người đời, trong đó có mình rằng chớ ăn gian
nói dối, đừng vu oan giá họa, không được lừa thầy phản bạn, cái nhân sinh ra
cái quả, chẳng phải luân hồi mấy kiếp mà đời người cũng ngắn ngủi như con cá,
lá rau, mới sáng đó đã chiều đây... Chị cười hinh hích:
-Chị
là chị đến vay vốn nhà chùa làm ăn, sang năm lại trả, "của chùa vay một
trả mười", còn cái lời mình hưởng, chị chẳng hơi đâu mà nghĩ sâu như cậu.
Cứ nghĩ vẩn vơ, dông dài như thế thì còn lúc nào mà làm ăn, mà tranh đấu...
Chiếc
xe cá mập mười bốn chỗ ngồi, máy lạnh êm ru ghé sát vào thềm nhà. Trên xe đã có
mấy bà lố nhố, ai cũng quần nhung áo gấm, ăn nói tự nhiên. Tôi lên xe, ngồi
cạnh người đàn ông duy nhất trong đám bạn chị Ngọc. Kể không có tôi, thì ông ta
là con gà trống trong đám các mợ gà mái dầu. Tôi chợt bật cười về cái ý nghĩ
hơi lưu manh của mình. Chị Ngọc giới thiệu: "Bác sĩ Duy Cương, bác sĩ
riêng của bọn chị, một phật tử trung thành!". Ông ta mặc bộ vét màu trắng,
tàu tàu, chiếc cà-vạt hơi mảnh, xiết lấy cái cổ lộ hầu to tướng. Bàn tay ông
lạnh, ẩm và lỏng, kèm thêm cái nhớm đít và "Cám ơn", nghe không rõ
giọng Nam hay giọng Bắc. Còn tôi thì chị Ngọc lớn giọng:
-Giới
thiệu với quý vị, cậu Vận, em con ông chú tôi, ở Hà Nội vào công tác. Vì nhỡ
tàu nên cậu ấy mới ở ăn tết với chúng tôi. Nghề nghiệp là cán bộ thanh tra Nhà
nước...
Tôi
hơi sượng cúi mặt, ông bác sĩ lại bắt tay tôi vẫn bằng bàn tay lạnh và lỏng
"Cám ơn". Một bà gầy nhô lưỡng quyền gần che lấp mắt, giọng khàn
khàn: "Úi dùi ui! Thanh tra chắc là ngon lắm nhỉ?". Chị tôi cười hà
hà, rồi dài giọng:
-Vâng,
ngon lắm nên mới bị người ta cho tàu bay giấy mà về nhà ăn tết với mẹ đĩ. Tôi
thì tôi biết tỏng tòng tong rồi. Này nhá: Thanh cha, thanh mẹ, thanh gì? Cứ có
phong bì là nó thanh kiu!
Cả
xe cười ồ! Tôi cũng cười, đúng là câu ca đáng buồn cười thật. Ông bác sĩ lại
quay phắt vào tôi bắt tay, có chặt hơn tý chút: "Cám ơn!".
*
* *
Xe
chạy nửa ngày đường mới tới nơi. Ngôi chùa to và đẹp thật. Tôi mua thẻ nhang
vào chính điện định cắm nhưng người bảo vệ thu lại, phát cho tôi đúng một cây,
bảo đừng đốt nhiều. "Khói bỏ mẹ, ai mà chịu nổi. Đừng tưởng cứ đốt nhiều
nhang là Phật thương đâu nha. Này kìa, bà kia, dúi cháy áo người ta...!".
Trai thanh gái lịch, ăn mặc rất mốt, phơi cả một khúc bụng, lúi húi móc gà
luộc, bia lon, thuốc 555... ra cúng Phật. Tôi đứng ngắm vị Bồ tát quan âm đẹp
thánh thiện, trong đầu cũng nghĩ những điều uớc muốn thầm kín. Xong tôi ra xe
hút thuốc với bác tài, chờ các bà còn đi lễ, cầu tài, mượn vốn.
Cậu
lái xe này cũng trẻ người nhưng tính tình có vẻ nhu mì. Xe này là của gia đình
sắm chạy thuê cho khách du lịch. Cậu ta bảo thỉnh thoảng vẫn chạy cho cô Ngọc, cô
chịu chơi lắm. Sao chú không vào trong này mà làm ăn? Cô Ngọc nhiều vốn lại quen biết rộng, cháu đi cháu biết, có cả
dân tư bản, Đài Loan, Nhật Bản không! Đang nói chuyện, chợt có một cậu bộ đội,
trẻ lắm, trẻ như trẻ con, dáng bơ phờ bụi bặm đến gần tôi lễ phép:
-Dạ,
có phải xe chú về thành phố?
Tôi
gật đầu. Cậu ta lí nhí:
-Lát
nữa chú cho cháu về thành phố được không? Cháu có giấy đây...
Cậu
lục lọi trong cái ba lô lộn ngược ra một mớ giấy tờ, rồi chìa cho tôi xem giấy.
Hoá ra anh chàng này là lính biên giới được đơn vị cho đi phép về thăm quê ở
Lục Ngạn, Hà Bắc.
-Chị
dâu cháu ghi thư vào nói mẹ cháu ốm nặng, chị mong cháu về. Cháu được thủ
trưởng cho phép, rồi cuốc bộ suốt đêm qua. Ra tới đây, không còn xe đò. Phải
chờ tới khuya nay mới có chuyến. Cháu xin chú...
Tôi
trả lại anh lính tờ giấy, bảo cậu ta:
-Xe
này không phải của tôi, tôi cũng là khách thôi. Em thử hỏi anh lái xe kia...
Cậu
ta ngần ngừ rồi đi về phía tài xế. Được mấy bước, nghĩ sao tôi gọi giật lại:
"Để tôi hỏi cho!". Anh tài xế không dám từ chối mà ngần ngại:
-Xe
thì còn chỗ đấy nhưng mà cháu sợ cô Ngọc.
-Nếu
chú đồng ý thì để tôi nói chị Ngọc cho.
-Vâng
tùy chú.
Cậu
ta cám ơn tôi rối rít rồi nhét cái ba lô lộn ngược xuống gầm chế, chìa bao
thuốc Jet ra mời tôi. Tôi châm lửa và hỏi:
-Em
đi bộ đội lâu chưa?
-Dạ,
được hơn một năm rồi, đây là lần đầu cháu được đi phép. Vội quá chẳng mua được
cái gì. Với lại chú bảo, lính tráng như chúng cháu cũng chả có tiền mà mua.
Cháu cần về nhanh cho mẹ cháu mừng. Chỉ sợ mẹ cháu chết mà cháu không được
gặp...
Các
bà lễ chùa đã ra, họ gọi tôi đi ăn trưa trong cái quán tuy không đồ sộ nhưng
cũng vào loại khá sang. Tôi khều cậu bộ đội:" Đi ăn cơm với chúng
tôi", nhưng cậu ta lắc đầu cười ngon lành:
-Cháu
ăn từ sáng còn no lắm. Chú cứ đi ăn đi, được chú cho đi nhờ là may cho cháu lắm
rồi.
Cơm
nước xong, mọi người lên xe, tôi bảo cậu bộ đội ngồi vào phía trong, còn tôi
ngồi giữa giáp với ông bác sĩ. Chị Ngọc ngồi trên hàng ghế trước ngang với tài
xế, quay xuống, hô to:
-Còn
thiếu ai nữa không? Cậu Vận đâu? Lên rồi hả? Nào thôi, xe chạy đi. Chợt chị
dựng ngược lông mày. Ê, ông tướng nào kia? Ai cho lên xe?
Chị
Ngọc nhìn chằm chằm vào cậu ta rồi quay sang tài xế. Anh ta thản nhiên nhìn ra
phía trước, làm như không nghe. Đến lúc chị Ngọc "hử" một tiếng rõ to
thì anh ta quay lại:
-Cháu...
cháu không biết.
-Thôi
xuống đi, ông. Chị Ngọc gằn giọng.
-Cháu...
cháu là bộ đội đang làm nhiệm vụ ở biên giới. Cháu xin các ông, các bà cho cháu
quá giang về thành phố để kịp mua vé tàu ra Bắc. Mẹ cháu ốm nặng...
-Không
có bộ đội bộ đùng gì hết, đây là xe nhà, chứ không phải xe đò. Xuống!
Nghe
tiếng chị Ngọc, tôi biết là chị giận lắm. Chắc cậu bộ đội cũng nghĩ thế, nên
cậu ta nhớm dậy, cúi xuống gầm ghế, moi cái ba lô lộn ngược. Tôi thấy nghèn
nghẹn trong ngực, kéo áo cậu ta ngồi xuống, nhớm lên phía trước, nói với chị
Ngọc:
-Cậu
này quê ngoài Bắc, là bộ đôi đóng quân ở biên giới, có mẹ ốm nặng. Bây giờ hết
xe đò, phải chờ đến ba giờ khuya. Em xin chị cho nó đi nhờ về thành phố...
Chị
Ngọc tròn mắt, nhìn tôi như nhìn người lạ từ cõi nào lạc tới. Chị ngoảnh lên,
lầm bầm: "Không khéo lại là thằng trấn lột. Rõ rách chuyện. Thôi, chạy đi
bác tài". Tôi chợt cảm thấy nhoi nhói ở đâu đó trong lòng. Nhìn anh bạn
trẻ, tôi chợt nghĩ về mình. Tôi cũng đã từng có những lần lỡ đường, phải nài nỉ
người ta, mà không khỏi bị xúc phạm. Có điều, thế hệ chúng tôi còn mang trên
lưng cái ba lô con cóc lòng thòng dây dợ, túi nhỏ túi to, chứ không biết lộn
ngược như những cậu lính trẻ hôm nay. Chiếc xe chuyển động cũng chừng như khó
nhọc hơn. Bà lưỡng quyền nhô cất giọng xoe xoé:
-Dạo
năm rồi tôi đi Đà Lạt mà gặp một bọn trấn lột kinh hồn lắm nha cô. Chúng nó có
hai thằng cũng mặc quần áo y chang mấy cha bộ đội xin quá giang. Nào ngờ lên xe
chúng xin tiền, ai không cho chúng "uýnh". Một cậu thanh niên bị tụi
nó "dzục" xuống đường vì không chịu "ói" cái đồng hồ
tich-tắc. Kỳ đó, may tôi không đeo cái vòng cẩm hai cây, nếu không chúng dám
chặt tay tôi mà lấy quá...
Lời
của bà ta ráo hoảnh, giọng chì chiết làm cho mấy bà bạn lắc đầu thè lưỡi. Ông
bác sĩ "cám ơn" thở dài sườn sượt. Tôi liếc thấy cậu bộ đội đi nhờ đã
ngoẹo đầu vào cửa kính mà ngủ. Xe chạy được chừng một giờ thì thủng bánh, anh
tài lặc lè xách cái thùng sắt xuống. Cậu bộ đội đi nhờ tỉnh ngủ, xin tôi nhẹ
nhàng xuống phụ với tài xế, lát sau tôi đã thấy tiếng cười khúc khích của anh
tài. Thay xong bánh xe, cậu ta lên xe, lấm tấm mồ hôi, một vệt mỡ pha gỉ sắt
quẹt ngang trán. Xe chạy lại, không khí đã bớt im lặng hơn. Người ta đã vui vẻ
kể cho nhau nghe những chuyện vừa thấy trong chùa. Tôi cũng bắt chước cậu bộ
đội, ngả lưng ra sau ghế nhắm mắt lại, dập dềnh theo nhịp xóc của xe. Thế rồi
tôi cũng thiu thiu...
Bỗng
tôi giật mình, đầu dập mạnh về phía trước, do xe phanh gấp. Tiếng đập cửa thình
thình, và không đợi có người ngồi bên trong mở, cánh cửa kéo xoạt, mở toang.
Bước lên xe là một tay bặm trợn, có vẻ mặt nhằng nhịt sẹo, trên tay lăm lăm quả
lựu đạn US
màu xanh bóng loáng. Thôi rồi, kẻ trấn lột thực thụ, không phải câu chuyện của
bà lưỡng quyền nhô vừa mới kể. Cũng không phải mơ ngủ, y hằm hằm mặt:
-Ai
có tiền, vòng vàng bỏ ra cho. Y cười hềnh hệch, ngửa cái mũ bẩn thỉu ra trước
mặt. Đây không muốn giết ai, mà chỉ cần sự biết điều.
Tôi
thấy chị Ngọc "biết điều" trước tiên, móc túi bỏ vào một xấp tiền:
-Ngần
này đủ rồi đấy, xin ông xuống cho...
Tên
trấn lột cười khẩy chìa cái mũ sang bà lưỡng quyền nhô, bà ta đờ người, ú ớ.
Tên cướp ngày dí quả lựu đạn vào trán, làm bà ta tháo vội chiếc nhẫn vàng khá
to ra. Xong xuôi, y đến hàng ghế tôi, ông bác sĩ ngoẹo vào tôi như một cái xác
lạnh toát. Tôi còn đang lúng túng chưa biết cách nào, chỉ lo ông bác sĩ chết.
Tên cướp tuồng như có ái ngại tí chút, nó chỉ đứng yên, vẻ sốt ruột nhưng không
dí lựu đạn vào tôi. Cậu bộ đội quài qua người tôi, đưa hai tay lắc đầu ông bác
sĩ. Bất ngờ, cậu ta vọt đứng dậy, đầu đụng trần xe một tiếng kịch khô khan. Bàn
tay cậu tóm gọn cổ tay tên cướp, vặn mạnh làm
nó kêu lên một tiếng đau đớn:
-Dang
ra, tao cho chết hết bây giờ!
Trong
một khỏang chật hẹp như thế, mà cậu ta vẫn đánh mạnh vào gáy tên cướp làm nó
ngã vật ra sàn xe, quả lựu đạn lăn ra. Có tiếng thét:
-Đừng
đánh nó! Coi chừng lựu đạn nổ chết hết giờ...
Tôi cũng hoảng, trái lựu đạn này của Mỹ, nó mà nổ thì sát thương không
biết chừng nào. Bằng này con người ngồi trong chiếc xe chật hẹp, chắc là chết
hết. Nhưng cậu bộ đội đi nhờ đã nắm gọn quả lựu đạn trên tay, cười:
-Xin
các bà đừng lo. Lựu đạn giả thôi mà. Đoạn cậu xốc cổ tên cướp lên, xoay mặt hắn
lại. Thiếu tiền nhậu phải không? Mấy lần
rồi?
Tên
cướp lí nhí trong cổ, rồi ngoan ngoãn nhặt trả lại những thứ vừa cướp. Bấy giờ
các bà mới hoàn hồn, thi nhau lên tiếng, ai cũng đanh thép:
-Đánh
cho nó một trận nhừ tử để nó không còn chân tay mà đi cướp!
-Lôi
cổ nó đến nộp cho đồn công an!
Tên
cướp sụp xuống trước mặt cậu bộ đội:
-Đại
ca, xin đại ca tha cho. Lần sau em không dám tái phạm.
Cậu
bộ đội hướng về phía chị Ngọc:
-Thưa
các bà, các bác, cháu đề nghị tha cho tên này. Sức lực nó yếu lắm, dân xì ke,
liều mạng vậy thôi, chứ nó nhát lắm. Đánh nó hay giao nó cho công an cũng được,
nhưng khổ cho nó, mà rồi chắc gì nó tốt hơn hay lại... Còn mày, không bao giờ
làm như thế nữa, hiểu chưa? Lừa người ta không dễ đâu, tao nhìn tao biết là đồ
dỏm mà. Xuống xe ngay, còn quả lựu đạn dỏm này để tao quẳng nó đi...
Tên
cướp lủi mất, anh tài xế vừa cho xe chạy vội vừa thanh minh:
-Thấy
nó chặn đầu xe, cháu cũng bất ngờ, bụng nghi nghi, không dừng lại sợ nó làm ẩu
thành tai nạn… Ai ngờ, nó dám liều vậy.
-Lần
sau chú không được dừng xe, có hư hỏng đâu tôi đền. Chứ như vừa rồi, sinh mạng
bao nhiêu con người... Chị Ngọc nghiêm giọng.
Ông
bác sĩ lúc này cũng đã tỉnh lại, lần tay tôi, thều thào "Cám ơn!".
Nhưng câu chuyện có vẻ nhạt nhẽo. Tôi nhìn sang, người khách đi nhờ đã lại
ngoẹo đầu vào cửa kính mà ngủ.
*
* *
Xe
chạy vào thành phố, đèn đường và hàng quán khách sạn sáng choang. Cậu bô đội đi
nhờ hỏi tôi:
-Đây
là đâu hả chú? Đến ga chưa ạ?
-Tôi
cũng lạ lắm, không biết gì về thành phố này cả. Để hỏi anh lái xe xem.
Từ
trên, chị Ngọc ngoảnh xuống, thông báo:
-Đến
thành phố rồi đấy. Ông bộ đội quá giang đâu, xuống đi...
Cậu
ta nhanh nhẹn bước ra, giọng lễ phép:
-Cháu
xin cám ơn các bà, các ông, cám ơn bác tài cho cháu quá giang. Chúc các vị bình
an...
Có
tiếng bà lưỡng quyền: "Thôi, đi đi, còn dài dòng vòng vo". Cậu ta làm
như không nghe thấy, nắm tay tôi thật chặt. Trong bóng tối, tôi nhìn vào cặp
mắt sáng rực rỡ của cậu ta, thầm mong cho cậu may mắn. Ông bác sĩ cũng bắt tay
cậu kèm theo câu "cám ơn". Xe chạy, tôi nhìn ra cửa kính, thấy cậu ta
đang ngơ ngác trước bạt ngàn người xe và ánh đèn sặc sỡ. Bên cạnh cậu, chỉ có
một cây cột điện im lặng, nhưng ghi đậm vào trí nhớ của tôi.
Về
nhà, tôi chưa thay quần áo, bảo thằng Hùng con trai lớn chị Ngọc:
-Cháu
có bận gì không? Lấy xe chở cậu đi đằng này tí...
Tôi
cảm thấy xe chạy chậm quá, mặc dù thằng Hùng chạy xe lạng lách khá điệu. Đến
đoạn đường khi nãy, không thấy ai trên cái mô đất vỉa hè công cộng. Tôi bảo
Hùng chạy đi chạy lại mấy lần, nhưng chỉ có cây cột điện thì vẫn còn đó, nó in
trong trí nhớ của tôi. Hùng sốt ruột:
-Cậu
tìm ai? Có hẹn à?
-Không.
Không có ai đâu. Về thôi...
1994
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét