Tôi quen Tăng Phò cách nay hơn
chục năm, rất tình cờ. Hồi đó xe đò đi từ Sài Gòn xuống các tỉnh và ngược lại
thật trăm bề khổ sở. Không có thẻ thương binh thì cứ gọi là xếp hàng gãy giò
cũng chưa cắc mua nổi vé. Có vé rồi, lên xe cũng chả có ghế mà ngồi, bao nhiêu
chỗ tốt, chỗ mát con buôn làm tất. Đành phải đứng. Đi xe mà mỏi chân hơn đi bộ.
Tôi có việc xuống Mỹ Tho, không
có thẻ thương binh nên phải ra xa cảng miền Tây từ bốn giờ sáng. xếp giấy công
lệnh rồi mà cứ ngay ngáy lo, chỉ sợ mất. Bảy giờ rưỡi mới lên xe, lại phải đứng
chung với can nhựa, vỏ bình ắc-quy, thau nhôm, vỏ xe đạp… Mỗi lần xe dằn, vung
nổi liệng tứ tung cứ như
là động đất. Tôi đứng úp mặt vào Tăng Phò, ngửi phải hơi thở của anh ta, toàn
mùi hành sống và thuốc lá đen.
Chiều, xong việc, tôi mua năm ký
gạo, cho vào cặp táp, xách lên thành phố ăn. Qua trạm Tân Hương thì gạo phải để trong cặp tài liệu
mới hy vọng thoát, còn không thì bị tịch thu ngay. Tình cờ thế nào lên xe – lần
này may sao lại có chỗ ngồi – tôi lại ngồi cạnh Tăng Phò. Anh ta có cái bị bàng
cặp trước bụng, còn cái bọc to thì để xuống dưới chân.
- Hây, lại gặp ông anh!
Phò cười. Tôi cũng cười và mời
anh điếu thuốc Vàm Cỏ. Anh hút khoái trá, ngửa cổ nhả khói lên trần xe. Tôi
nhìn kỹ Tăng Phò: tóc cứng dựng ngược, mặt ngắn và sần sùi mụn trứng cá, mũi
lớn, miệng rộng, răng to. Con người hơi đần, có thể rất tốt bụng, cũng có thể
rất độc ác, tôi thầm nghĩ.
Xe chạy đến trạm Tân Hương, giáp
ranh hai tỉnh Long An và Tiền Giang (không hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng ngày trước
nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng làm cán bộ thuế vụ ở đây). Hành khách được đuổi
xuống để nhân viên nhà nước làm việc. Tôm, gạo, thịt… đều là hàng tỉnh cấm,
thuế rất nặng, cãi một
tiếng là tịch thu liền. Mấy ký gạo của tôi để trong cặp cán bộ mà cứ hồi hộp,
tim đập loạn xạ. Tăng Phò lầm lỳ. Chợt có một anh nhân viên xách cái bao
ni-lông dệt màu đen, xướng lên:
- Cái này của ai?
Phò giật thót người: “Dạ của em!”
- Cái gì trong này?
- Thưa, không có chi. Một chút đồ
ăn đem lên thăm bệnh…
- Đồ ăn gì mà nhiều dữ vậy? Mở ra
coi!
Năn nỉ mãi không xong, tăng Phò
đành tháo dây cột. Trong đó có một cái nồi đen nhẻm. Mở nắp ra, đầy ắp thịt
kho.
- Ê, sao nhiều quá vậy?
- Dạ, thưa anh, ông già em nằm
nhà thương, có giấy chứng nhận của xã đây…
Nhân viên nọ không thèm nghe,
nhắc thử:
- Năm ký. Vậy là không được rồi.
Đóng thuế!
- Thuế má chi anh. Thịt nấu rồi, ai còn buôn bán
chi được mà thuế…
Lời qua tiếng lại, lát sau Tăng
Phò nổi khùng:
- Đù mẹ các ông, cũng phải để cho
người ta sống với chớ.
- Á à, dám chưởi người nhà nước
hả. Tịch thu trắng. Có muốn còng đầu không?
Mặt Tăng Phò tái đi, anh toan
bưng nồi thịt đổ xuống đất. Tôi giữ tay anh lại, nói với người khám xét:
- Xin đồng chí thông cảm cho. Ông
già ảnh bịnh nằm nhà thương.
Người kia lừ mắt với tôi:
- Anh có để cho tụi này làm việc
không? Can chi mà xía vô.
Tôi sợ quá, tịt luôn. Phò bưng
nồi thịt trút ra bàn làm việc của trạm thuế, cầm cái nồi giơ lên:
- Còn cái nồi đen này có tịch thu
không?
Xe chạy, tăng Phò hằm hằm giận
dữ. Được một lát, anh cười gằn:
- Cho các con chết. Ông nội mày
bỏ thuốc rầy vô rồi, thằng nào ăn chỉ có nước chết. Rồi anh phá lên cười như
điên dại. Tôi thấy ghê quá. Xuống bến xe, tôi bảo Tăng Phò:
- Thôi, bỏ qua đi. Uống cà phê
cái đã.
Trời nhá nhem tối, hai đứa ngồi
trong quán, tôi hỏi:
- Trong thịt có thuốc độc thiệt
à?
Anh cười hiền lành:
- Đâu có. Giận thì nói vậy chớ ai dám.
- Anh mua về để ăn chớ?
- Ai ăn. Tôi đi mua thịt bỏ mối
cho hàng cơm bình dân. Ba
chục đồng vốn mất tiêu. Nếu suôn sẻ về tới Sài Gòn, lời được sáu bảy đồng…
Từ đó chúng tôi biết tên, làm
quen nhau, hẹn đến nhau chơi.
Tăng Phò là trung sĩ biệt động
quân. Sau 30 tháng Tư năm 1975 anh đi học tập mấy tháng rồi về. Thất nghiệp.
Sau, nghĩ ra cái cách làm ăn như vừa rồi. Thiệt dở cười, dở khóc.
***
Thời gian về sau, tăng Phò xin
được vào làm công nhân
của Sở Vệ Sinh. Anh được biên
chế vào đội phục vụ mai táng. Chức năng là tẩm liệm xác chết và chôn cất. Công
việc này tuy có thu nhập khá nhưng thời kỳ đầu Phò rất hoang mang.
- Khủng khiếp quá ông ạ – Anh nói
– Trong chiến tranh, mình tiếp xúc với xác chết mà cứ tỉnh queo. Bây giờ… sao mà ớn quá, tính bỏ ngang.
Nhưng biết làm nghề gì được. Lính tráng với nhau, chắc ông hiểu, chỉ có mỗi cái
nghề bắn giết. Thôi cũng đành liều. Mỗi lần xắn tay áo, phải làm một ly đế. Sau
lên một xị, hai xị…
Nhìn khuôn mặt xù xì xám ngắt của
Tăng Phò, tôi thấy ái ngại. Được cái đời sống anh cũng khá lên, không đến nỗi
khó khăn như trước.
Hai năm sau, Tăng Phò cưới vợ. Vợ
anh tên là Nhẹn. Cô Nhẹn là người cũng có nhan sắc, nhưng trót lầm lỡ phải bỏ
quê lên thành. Cô làm người ăn kẻ ở trong nhà cho một bà già góa bụa. Bà này có
mở một quán cơm, cô Nhẹn đứng trông coi. Là gái chân quê, có chút kinh nghiệm
phố phường, nên cô có được cảm tình của thực khách. Hơi đẫy đà, có tướng của một mệnh phụ quyền biến,
cô Nhẹn có tiếng là một bà chủ quán mặn mà. Chính lúc đó, Tăng Phò thường bỏ
mối thịt kho cho quán cô Nhẹn. Kể cũng lạ, bao nhiêu năm trời cô không thương
ai, tự nhiên gặp anh chàng tứ cố vô thân này, trái tim cô rung động. Từ rung
động đến thổn thức. Hai người lấy nhau, không màu mè lễ nghi rắc rối. Cô có
chút vốn liếng, họ thuê một căn nhà vừa ở vừa làm quán bán cơm. Quán vẫn đông
khách. Còn Tăng Phò đâm ra yêu nghề. Ngày ngày anh vẫn nai nịt gọn gàng theo xe
con rồng lên Gò Dưa, Bình Hưng Hòa… Một năm sau, cô nhẹn sanh con trai. Nhưng… đứa trẻ sanh ra đã
bị dị tật. Tay trái ủa nó bị cụt đến cổ tay, không có bàn tay. Ở cái chỗ bị cụt
ngủn kỳ dị ấy mọc lên năm cái cục thịt nhỏ xíu bằng hột đậu xanh. Cục nào cũng
có móng, dấu tích của những ngón tay.
Cô Nhẹn khóc như mưa gió. Còn
Tăng Phò ngồi lì trước chai rượu. Được cái thằng nhỏ khỏe mạnh và mau lớn. Ba
tuổi nó đã tỏ ra thông minh không những hơn hẳn cha mẹ mà còn vượt trội cả
những đứa trẻ cùng tuổi. Tên nó
là Tăng Ly.
***
Suốt thời gian từ sau đám cưới và
xảy ra những biến cố trên đây tôi không gặp Tăng Phò. Khi tôi gặp lại anh là
lúc thằng Tăng Ly được năm tuổi. Thằng bé xem ra dung mạo khác lạ, không dễ gì
tin nó là của con anh phu nhà đòn với cô hàng cơm. Nước da nó trắng hồng, môi
đỏ như son, mắt sáng, mũi cao, cằm vuông, tóc đen nhẫy lòa xòa trước trán. Chỉ
có một điều, bàn tay trái của nó luôn đút trong túi quần pijama. Tính tôi vốn hiếu kỳ, cái gì
lạ đời là muốn thấy cho bằng được. Tôi đến chơi nhiều lần, nựng nó rất khéo
nhưng nó cũng không để
cho tôi nhìn thấy cái bàn tay ấy. Tôi đâm ra băn khoăn, thương cho vợ chồng Tăng Phò. Tôi
tìm hỏi các nhà y học, các nhà di truyền học nhưng họ cũng chỉ giải thích chung
chung, bâng quơ, đại loại là đột biến “gen”, hoặc tác động ngoại cảnh.
Cho đến một hôm, cũng do tình cờ,
tôi gặp người bạn cũ của Tăng Phò. Anh này tên Năm, trước đi lính đóng chung
với Phò. Anh năm giải đáp thắc mắc của tôi bằng một câu chuyện như sau:
Dạo đó là mùa gió chướng, đơn vị
của họ đóng đồn ở vùng Đồng Tháp Mười, giáp giới Tân Thạnh, Mộc Hóa. Nước nổi
lấp xấp trong văn vắt quanh gò đất. Sau đợt hành quân của trực thăng và bo bo, Việt Cộng
lùi sang bên kia sông, tình hình tạm lắng dịu. Đêm ngày, đơn vị của Tăng Phò
chỉ còn lo canh chừng đám du kích lội ngầm tới công kích. Lâu lâu bắn cầm chừng
cho các đồn bên cạnh vững bụng. Thỉnh thoảng trên chi khu có tiếp cho ít đồ
hộp, gạo sấy. Còn rượu thì uống lén. Ở đây xa dân cư nên không thể kiếm chác
được gì.
Chiều đó, Tăng Phò đi quanh khu
gò đất xem chừng. Tánh anh lầm lì, gan dạ, làm tốt chức trách quân nhân nên
được cấp trên tin tưởng khen ngợi. Chỉ bởi anh ít chữ nên không làm được sĩ
quan. Giữa vùng nước nổi bạt ngàn, gió chướng lao xao, không nghe giọng hò,
không có tiếng mái chèo cọt kẹt, ngao ngán thiệt. Chợt Tăng Phò ngồi thụp
xuống, cảnh giác. Một vật gì lập lờ dạt vào gần bờ đất. Mấy tay súng lăm lăm
theo lệnh trung sĩ. Một loạt đạn xả vào vật trôi lềnh bềnh đó, nước sôi lên
tung tóe. Sau đó vẫn là im lặng. Phò lấy một nhánh tràm khều cái vật lạ vào bờ.
Đó là cái bao bàng được
may cẩn thận. Anh lấy dao cắt đường may, cả tốp nín thở hồi hộp. Khi bao bàng được mở ra, bên trong là một cái gói bằng
ni-lông. Mở bao ni-lông là một bọc vải, còn khô nguyên,
tuy co mấy lỗ đạn. Mở gói vải ra thì tất cả rùng mình la hoảng. Xác một
đứa trẻ ba tháng được mặc áo quần cẩn thận, xung quanh chèn bằng tã lót và xức
dầu thơm. Mặt Tăng Phò đanh lại, anh mở cái xác hài nhi ra coi thì… tay trái
của nó bị cắt cụt đến hết bàn tay, máu đã khô đọng. Anh hạ lệnh cho mấy chú
lính đào huyệt chôn cái xác đó và bày một ít đồ ăn ra cúng trên nấm mồ nhỏ xíu.
Mấy ngày sau Tăng Phò như người ị hớp hồn, hay tư lự và cộc cằn…
- Lúc đó, tôi cũng có mặt – Anh
Năm kể tiếp – Sau này tôi có hỏi một ông thầy chùa. Ông nói là cái đứa trẻ đó
khó nuôi, cha mẹ nó hiếm hoi, sanh mấy lần đều chết yểu. Đến đứa này cũng không
nuôi được, họ không đem chôn mà thả cha trôi sông và chặt một bàn tay làm dấu để nó không về
đầu thai được nữa. Nhưng cái hồn đứa trẻ đó rất thiêng, ai cưu mang làm ơn với
nó, sau này nó theo về trả ân…
Tôi nghe chuyện mà thấy gai cả
người, mặc dù không thể tin vào cái chuyện trả ân đó được. Nhưng đúng là Tăng
Phò có làm cái chuyện như
anh Năm vừa kể.
Ít lâu sau, tôi lại ghe một người
quen khác của Tăng Phò kể rằng:
- Hồi đi lính, tôi cùng ở chung
đơn vị với Tăng Phò, thằng cha này ác nhơn thất đức lắm. Lần ấy chúng tôi hành
quan lên Đồng Xoài tìm diệt Việt Cộng. Đi hoài chẳng thấy Việt Cộng đâu mà đơn
vị thì đã bị thương vong khá nhiều. Chính thằng cha Tăng
Phò cũng bị một vết thương vào cánh tay. Lúc y tá băng bó, mặt hắn đanh lại gầm
ghè. Hắn thề bắn giết bất kỳ người nào mà hắn gặp. Hôm sau chúng tôi vào một
cái làng tiêu điều. Dân ở đay di tản đi ca. Tìm hoài thấy hai mẹ con người đàn
bà đói và rách. Đôi mắt trắng dã của người mẹ mở trừng trừng nhìn đám lính
chúng tôi đang hùng hổ. Tăng Phò dí súng vào mặt bà ta hạch hỏi:
- Việt Cộng đâu?
Người mẹ ấy im lặng không trả
lời. Phò lôi bà ta sềnh sệch ra giữa sân. Đứa con trai khoảng ba tuổi khóc
thét, bám cứng vào áo mẹ làm cho hắn bực mình. Tăng Phò hung hăng rút do ra hém
phăng bàn tay đứa trẻ. Thằng bé rời ra tím ngắt, máu phun lênh láng. Còn bàn
tay kia vẫn lủng lẳng đeo bám vào vạt áo người mẹ. Bà mẹ lồng lên, lao vào Tăng
Phò cắn xé. Bà ta bị hắn bắn chết ngay. Còn đứa con giãy giụa trong vũng máu,
lát sau cũng chết. Phò ném xác đứa con nằm vắt qua xác mẹ rồi hằm hằm bỏ đi…
- Chú ơi, người kể chuyện thì
thầm vào tai tôi, chính tôi nhìn thấy cảnh đó, mấy ngày sau còn rùng mình.
Riêng Tăng Phò tôi thấy thằng chả lầm lì, uất lắm. Không chừng chính đứa bé ở
Đồng Xoài ngày đó về đầu thai báo oán hắn cũng nên…
Câu chuyện của người này làm tôi rùng
mình. Tôi cũng không
tin vào sự báo oán đó, nhưng cứ nhìn mặt Tăng Phò tôi lại thấy ghê ghê. Tôi hỏi
anh có ở Đồng Xoai bao giờ chưa, anh đáp:
- Có. Hồi năm 1967, tôi có hành
quân lên trển.
***
Từ khi nghe những chuyện đó, mối
thiện cảm của tôi với Tăng Phò hình như khác lạ đi. Ở đời hễ ích kỷ, chuyện của
người bỏ ngoài tai thì được nhẹ nhõm, nhưng nếu có chút tình với nhau, trái ngang của bạn cứ ám ảnh mình,
có khi còn đa đoan hơn chính bạn.
Dịp Tết vừa rồi tôi có đến thăm
gia đình Tăng Phò. Tăng Phò vắng nhà, anh vẫn theo xe con rồng lên Lái Thiêu,
vì người từ biệt thế giới này đâu có kiêng dè gì Tết nhất. Tôi bước qua cánh
cửa để ngỏ. Quán còn đang nghỉ Tết. Ở góc nhà thằng Tăng Ly đang ngồi say sưa
vẽ, nó vẽ rất đẹp. Và, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái tay dị tật của nó để
hớ hênh dưới đầu gối. Nó sần sùi, lởm chởm, mấy cục thịt nhỏ xíu dính ở chỗ cụt
có vẻ là dấu tích của những ngón tay thật. Một lát sau, thấy tôi, nó vội vàng
giấu cái tay vào túi áo pijama, chào tôi rồi gọi mẹ. Cô Nhẹn xinh đẹp, đậm đà
bước ra tiếp tôi niềm nở rồi đuổi con lên gác chơi. Chuyện trò một lúc, tôi cứ
bị ám ảnh bởi cái tay thằng Ly. Không dằn được tò mò, tôi đánh bạo hỏi:
- Tôi hỏi không phải, có gì cô
Sáu đừng giận nghe!
- Có chi đó anh Hai? Vợ chồng em
quý anh lắm mà. Anh đừng khách sáo, tụi em buồn.
Tôi tằng hắng mãi rồi mới dám
hỏi:
- Thằng Ly nó bị tật ở tay. Tôi
nghe nói bẩm sinh, có phải không?
Cô Nhẹn quay mặt đi, dợm nước
mắt:
- Anh Hai thương tụi em mà hỏi,
em mới dám nói thiệt. Cũng có lời đồn đại ác độc cho anh Sáu nhà em. Thiệt ra nó như vầy. Lúc có
bầu thằng Ly được năm
tháng, em có lén chồng em đi siêu âm, bởi lúc đó em làm cũng có tiền. Người ta cho biết nó là con
trai. Bình thường, không sao cả, cứ yên tâm về bồi dưỡng chờ ngày sanh. Lúc trở dạ, em vô nhà bảo
sanh tư. Đau quá, em chịu
không nổi nên bị xỉu. Lúc tỉnh dậy không thấy con em đâu, em lo quá. Ngày nào
chồng em ảnh cũng vô hỏi con đâu. Người ta cho biết nó bị yếu nên phải nằm
riêng. Một tuần sau, em được gặp con thì trời ơi…
Cô Nhẹn khóc nức nở ngay trước
mặt tôi. Tôi không hiểu chuyện gì, nhưng cũng không dám hỏi. Một lúc sau cô vừa
nấc vừa kể tiếp:
… Bàn tay trái của nó bị băng bó.
Thằng nhỏ hơn bốn ký. Vì lớn quá nên cô đỡ không biết phải dùng cây móc kẹp sao
đó mà khi lấy được nó ra khỏi bụng mẹ, bàn tay trái của nó cũng bị nát… Em tính
thưa kiện nhưng chồng em ảnh bảo thôi. Đằng nào cái số nó cũng đã vậy rồi.,
Từ biệt cô Nhẹn, mà lòng tôi
không khỏi phân vân. Trình độ đỡ đẻ của ta đau đến nỗi tồi. Nếu thằng Ly bị cắt
cụt bàn tay từ lúc mới lọt lòng thì chắc gì nó đã sống nổi. Nhưng mà… nếu đúng
như lời cô Nhẹn thì sao? Chẳng hóa ra số phận một con người, một đời người lại phụ thuộc vào bà đỡ xoàng
và mấy cây móc kẹp bằng sắt? Lời kể của cô Nhẹn, mẹ thằng Ly không làm cho tôi
tin, mặc dù có vẻ duy vật hơn.
Nhưng dù sao thì thằng bé Ly đẹp
như thiên thần kia cũng suốt đời mang cái tay cụt bất hạnh mà chắc chắn là
không phải tự nó gây nên.
1991
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét