Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

MỘT NGƯỜI CHƠI CHÓ Truyện ngắn





            Ông Sáu Tính đã thức giấc, thức từ lâu rồi, tầm ba giờ sáng thì phải, nhưng ông không muốn dậy. Dậy sớm là cái bệnh của người già, nhưng là người già bình thường, thậm chí tầm thường, chứ còn ông, ông dậy mà làm gì, mà khua khoắng, dạy dỗ ai? Ông trở mình và nghĩ, nghĩ ngợi cũng là một cái bệnh của người già. Người già thường nghĩ về những cái đã qua, những phen hú vía, những mẻ tiếc rẻ và cả những lần hồi hộp, vì cho đến gần trọn cuộc đời, người ta cũng chưa biết được, cái vụ việc ấy, cái con người ấy... sẽ kết thúc ra sao, nếu như...? Nếu như..., giá như... giá như ta đừng, hay giá như ta cứ...
            Có tiếng cào cửa của A Còng, tiếng cào nhè nhẹ, mơn man nhưng dai dẳng, thỉnh thoảng mới nghe tiếng rít nhẹ của một kẻ yêu chủ thái quá. Ông Sáu quay mặt trở ra, định ngồi dậy, nhưng chưa đành, vì ông chưa nghe tiếng của Thượng Thư. Thượng Thư bao giờ cũng đúng mực, đúng giờ. Khi Thượng Thư chưa lên tiếng, có nghĩa là chưa đến năm giờ, cái phẩm chất ấy khiến ông Sáu nể phục Thượng Thư, dù nó chỉ là một con chó, nhưng là con chó tốt. Thế rồi, Thượng Thư cũng lên tiếng. Tiếng đầu tiên nó sủa để thị uy, dọa nạt A Còng rằng đừng quấy rầy ông chủ. Tiếng thứ hai vang hơn, sắc hơn, và quảng đại hơn, là dùng để báo thức bọn cùng loài, đang nằm rải rác đây đó, đang ngủ mê mệt, hãy thức dậy, đến giờ phải dậy rồi, phải làm việc và phải ăn rồi. Tiếng thứ ba trầm hơn, có vẻ khẽ khàng hơn, nó hướng cái mõm đen nhẫy, đầy lông lá vào gần cửa phòng, nín hơi rồi mới sủa, một tiếng êm ái, đó là tiếng nói đánh thức ông Sáu:
            Ông chủ ơi, dậy thôi....
            Năm giờ sáng, bên ngoài trời con tối thẫm, thỉnh thoảng có những chiếc xe máy chạy như bán mạng, gầm rú, làm rung rinh cả ánh đèn đường đang ngái ngủ. Trong sân, dưới ánh đèn mờ màu sữa đục, A Còng rối rít nhảy trước mặt ông. Thợ Hồ ngồi dậy rồi, nhưng vẫn còn ngái ngủ, nó hết nhìn ông chủ, lại ngó Thượng Thư và A Còng rồi thong thả rửa mặt, thản nhiên. Ông Sáu đưa mắt nhìn ra phía góc sân đầy những tàu lá chuối khô chưa cắt, treo loạt xoạt trong gió sớm, Hoa Đỏ và Mic đang vờn nhau, thỉnh thoảng Mic-17 lại bị Hoa Đỏ ngoạm cho một miếng vào cẳng chân, nó nhảy lùi ra xa, lắc đầu, thế thủ. Chỉ có Thái Giám là vắng mặt, chắc anh ta đang buồn vì thân phận, nhưng cũng có lẽ khác, nó lười nhác. Đã đành, một con chó thiến thì chăm chỉ, xăng xái làm gì, lấy lòng ai, khi mà miếng ăn nó cũng chả thiết.
            Như thường lệ, ông Sáu cúi xuống bế A Còng còng lên vuốt ve bộ lông trắng phau của nó, khiến Thượng Thư đang đứng bên cạnh phải vẫy đuôi, phát ghen. Còn Thợ Hồ ngưng công việc rửa mặt, nhìn bằng cặp mắt ánh lân tinh, đầy vẻ khinh bỉ. Ông chủ biết, nhưng ông không nói gì. Thợ Hồ là một thằng lưu manh, ông nghĩ!
            Trong bầy cẩu quan của mình, ông Sáu tỏ ra cưng chiều, quý mến nhất là A Còng! Ông quý nó bởi không chỉ nó là con chó ngoại, đắt tiền, mà nó còn là hình ảnh luôn gợi lại cho ông một thời oanh liệt, cái thời mà cho dù thế nào đi nữa, ông cũng không quên, nếu được làm lại cuộc đời, ông cũng sẵn sàng lặp lại y như thể Máy Trời đã "lập trình" sẵn để dành cho ông.
            Làm quan sớm, lúc mới hai muơi hai tuổi ông đã là một cán bộ cấp huyện, đứng mũi chịu sào trước cả vạn dân, lo ăn, lo ở cho họ. Ông không phải là quan ăn lộc vạn hộ, nhưng ông luôn được hàng nghìn con mắt nhìn vào, đầy kính phục. Chỉ có một người, đó là thân phụ của ông, vốn là một người nho học, có đọc ít sách cổ thì nhìn con, tỏ vẻ ái ngại: "Thiếu niên đăng khoa, tưởng rằng hay, nhưng sẽ là một mối bất hạnh. Con hãy liệu đường mà toan tính?". Quả nhiên, mười năm sau, ông vẫn ì ạch ở chức ấy, và dã đến lúc người ta không cần ông ở chức vị ấy nữa, ông bị đẩy sang làm một chức lại nhỏ ở tỉnh, rồi hai mươi năm sau cùng của cuộc đời, ông chịu làm phó cho tám đời giám đốc khác của chỉ một công ty, cho đến khi về hưu. Làm phó là một điều may cho những ai an phận, chỉ cầu an và cầu lợi. Nhưng làm phó là một mối bức bối cho kẻ nào muốn bứt phá, muốn thể hiện mình. Ông Sáu, lúc đầu ông thuộc loại người thứ hai, tức là ông cũng muốn giành lấy toàn quyền, muốn thể hiện bản lĩnh và tài năng của mình. Ông hy vọng vài năm thôi, ông sẽ lên trưởng, sẽ được thực hiện ý đồ của mình. Nên ông cúc cung phục tùng giám đốc, không hề đơn sai, dù một ly, một tí. Không chỉ để lấy lòng các cấp trên mà ông còn tránh không để sai phạm, ngay cả khi biết đó là sai phạm, ông cũng "nhẹ nhàng" dành cho cấp trưởng. Quả nhiên ông giám đốc thứ nhất "của ông" dính tội, phải ra đi!
            -Mẹ kiếp, ông văng tục (ngầm trong bụng thôi) một cách hào hứng, cái thằng nhà thơ chết tiệt nào nói thế mà hay. Cấp phó là cấp ăn chơi; Chờ cho cấp trưởng chết rồi mình lên!
            Nhưng, cấp trên vẫn không đưa ông lên trưởng, mà điều một ông giám đốc khác. Ông hậm hực tí chút, nhưng rồi hiểu ngay ra thân phận của mình. Một lần, cô nhân viên hành chính xin ý kiến ông rằng, nên mua loại trà nào, trà Bắc hay trà Bảo Lộc để tiếp khách, ông Sáu ngồi thừ ra suy nghĩ một hồi lâu, rồi nói với cô nhân viên:
            -Cô cứ ra làm việc đi, cái này để tôi xin ý kiến anh Hùng (giám đốc) đã nhé. Có gì tôi sẽ báo sau...
            Thế rồi, một ngày xấu trời nào đó, có kẻ xấu miệng nào đó gọi ông là "Cái đuôi" của giám đốc! Thì đã sao? Cấp phó là cấp...
            Ông giám đốc thứ hai được điều lên làm chức cao hơn, nhưng ông Sáu vẫn được ngồi nguyên vị trí, làm phó cho một tay giám đốc trẻ hơn. Ông có cay thật, nhưng nghĩ lại, ông vui vẻ làm cái đuôi, để ăn chơi, để chờ thời... Ba đời giám đốc, mà vẫn ông phó ấy, thì kể cũng oái oăm thật! Hình như cấp trên cũng nhận thấy thế, nên an ủi ông bằng những chuyến công cán ra nước ngoài, những chế độ về nhà đất thật ưu đãi. Thôi thế cũng thỏa, hãy cứ tạm chấp nhận, đường đời còn trước mắt, lo gì... Nhưng, đến nước này, bọn xấu mồm không còn coi ông như cái đuôi của giám đốc nữa, mà chúng đểu hơn, gọi hẳn ông bằng cái tên: con chó cảnh của giám đốc! Sao lại thế? Chúng nó ì xèo bảo với nhau rằng: lão phó chẳng làm gì cả, chỉ suốt ngày ve vẩy, ra vào. Lão chẳng quyết định được gì, ngay cả gói trà cũng phải "xin ý kiến"! Thế thì chẳng là chó cảnh hay sao?
            Kệ! Ông chờ thời hay ông thức thời, thì ngay cả chính ông cũng không cần biết. Quen rồi!
            Ông Sáu đặt A Còng xuống, nó sung sướng nhảy mấy vòng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp lại, nó muốn lạy tạ ông chủ, và cả Thượng Thư lẫn Thợ Hồ. Trời sang dần...

***
            Trên con đường mà ngôi biệt thự của ông Sáu tọa lạc có ít nhà, mỗi bên chẵn lẻ có hơn chục số nhà, nên ông có ít hàng xóm, không, hàng phố mới đúng. Tuy ít láng giềng, nhưng toàn là những láng giềng oanh liệt. Những ngôi nhà thâm trầm có tường cao và cây xanh che phủ, những mái ngói thâm rêu, những cánh cửa nặng nề và những con người kín đáo, chẳng bao giờ thấy họ trò chuyện với nhau, cũng chẳng khi nào họ để ý đến nhau. Tuy nhiên, họ biết nhau cả đấy, bằng các nguồn thông tin từ trên cao, từ những sa lông bóng loáng truyền tai nhau bằng những nụ cười to nhỏ, khó hiểu.
            Ông Sáu mở cổng, tiếng xích sắt loảng xoảng, hai cánh cổng khô dầu rít lên khi mở ra, rồi đóng lại, một lần nữa tiếng xích sắt lại loảng xoảng vang lên. Có ồn thật, nhưng không làm ai khó chịu. Tuy thế, khi ông cầm đầu một "phái bộ" gồm những sáu con chó, đủ kích cỡ, màu lông rùng rùng một lượt đi ra, thì không chỉ những kẻ đi đường, mà ngay cả hàng phố cũng phải nể mặt.
            Sáu con chó quý, trừ A Còng, còn lại tất cả đều bị những sợi dây xích xiết lại. Riêng Thượng Thư và Thợ Hồ còn bị đeo rọ vào mõm, đó là hai con vật có khả năng gây hại cho người đi đường mỗi khi chúng có dịp ra ngoài. Ông chủ và những con chó đi dạo trên một đoạn đường khá dài rồi đồng loạt dừng lại bên một gốc cây dầu cổ thụ, khá kín đáo. Đầu tiên là A Còng, nó được tự do, dừng lại, lấy mũi ngửi ngửi chỗ đất dưới chân, rồi hơi lùi lại, đứng dạng hai chân sau, như một thế võ "xuống tấn", cong đuôi và... ỉa! Thế là, Thượng Thư và những con còn lại cũng đồng loạt làm cái công việc quen thuộc và cần thiết của chúng. Ông chủ quan sát một lượt bọn chúng, thấy yên tâm, rồi ngửa cổ một cách lịch sự, nhìn lên ngọn cây, chăm chú khám phá những điều mới lạ của một buổi sáng thú vị. Bỗng dưng, ông giật mình vì bị một sợi dây xích kéo căng. Lại Thợ Hồ? Tuy bị khóa mõm, nhưng nó vẫn tranh thủ "đấm" một quả vào cạnh sườn Thượng Thư . Không biết có đau không nhưng kẻ đạo mạo này cũng không thể để yên, nó tấn công trả miếng, nhưng Thợ Hồ đã chủ động thủ sẵn tránh đòn. Sợi đây xích của Thượng Thư văng khỏi tay ông chủ. Ông Sáu lầu bầu vài tiếng khó hiểu và vội vàng rượt theo, khi nắm được sợi xích thì ông thở dốc.
            Con vật tuy có hung hãn, nhưng oai vệ và trung thành này đôi khi khiến ông nổi cáu, nhưng bao giờ cũng gây cho ông mối cảm động chân tình. Nó là một con vật trung thành, nhưng không hề biết chung thủy là gì. Đó là điều chỉ từ khi có Thượng Thư ông Sáu mới biết như thế về chó và loài chó.
            Về hưu, không biết có phải bị lời nguyền ám ảnh hay không, nhưng  ông không có bạn. Đành rằng, trong hơn hai mươi năm cuối công tác, ông làm tốt chức trách cấp phó, phục tùng tuyệt đối tám ông cấp trưởng của mình. Phục tùng ngoan ngoãn để an toàn, hay để mưu lợi thì cũng thế, nhưng rèn cho ông một đức tính nhẫn nhục phi thường. Ông không dễ bị chọc giận và cũng dễ bị lôi kéo. Lặng lẽ, long trọng và phớt lờ... là thế nhưng đã một lần ông bị một tên tiểu nhân khiêu khích. Hắn dám phồng mang trợn mắt lên mà mắng ông:
            -Ông dám nhận ông là người tốt ư? Nói cho ông biết, bao nhiêu bằng khen, giấy khen của ông chẳng qua chỉ là những cái áo phường tuồng, lòe lọet, che mắt thế gian, do những kẻ thông manh ngồi tít tận đâu đâu mà ký, mà ban. Người tốt phải là người có ích cho mọi người, dù họ chẳng có mảnh giấy khen nào! Ông tốt với ai hay chỉ với chính ông? Ông may ra được coi là người không xấu là cùng...
            Mà ông có làm gì hắn đâu nhỉ? Hắn đến nhờ ông ký xác nhận là công ty không từng cấp nhà cho hắn, ông bảo đợi giám đốc về ký. "Đợi đến mai là ngày khắc, ngày xấu". Xấu tốt gì, vẽ chuyện, giám đốc ký mới đúng nguyên tắc! Có thế thôi mà hắn dám bảo là "ăn ở như ông thế thì chỉ có chơi được với chó thôi"!
            Về hưu, hai đứa con lấy chồng ở riêng. Rồi vợ ông cũng theo chúng. Bà ấy bảo: Thôi, ông ở một mình cho sướng thân. Sống với ông tôi chịu hết nổi rồi! Ơ này, thế cái ngôi biệt thự này? Ông muốn ở thì ở, muốn bán thì bán! Nếu ông buồn thì hãy đem lũ chó về mà nuôi! Người văn minh hay chơi với súc vật, ông chả mong thế là gì...
            Cái bà này! Tôi có làm gì đâu mà bà chán tôi! Ừ thì tôi có khó tính, có bủn xỉn, nhưng cũng để gom góp, chỉn chu cho tôi, cho bà. Thôi được, các người muốn đi đâu thì đi, liệu chừng còn có ngày quay về, tìm đến ta. Tròn một năm, chẳng ai đến thăm, không người đến hỏi, vợ con cũng mất hút. Đếch cần. Ông nuôi mấy con chó cho vui thì đã sao...
            Đầu tiên là Thái Giám, ông đặt tên cho con chó thiến. Tội nghiệp, cái hôm thiến nó, tên thợ hoạn cột treo cổ nó lên cây xoài, bắt chéo hai chân trước rồi buộc nốt hai chân sau. Tên thợ hoạn đến là khéo, nó chích mũi dao vào, nặn hai hòn giống vứt tọet vào chậu tro, chả khâu khiếc gì, con chó được thả ra, lủi vào bụi chuối, bê bết máu. "Chó liền da, gà liền xương, chả phải lo, ông ạ!". Chiều nó bò ra, nhìn ông ai oán, nhưng vì là giống chó, nên chỉ cần cho bát cơm, nó cụp ngay mắt xuống. Từ đó về sau, nghe tiếng sủa của Thái Giám thật thê lương, nó kéo dài như tiếng tru gió của loài chó rừng, đầy vẻ bức xúc, ai oán.
            Mic-17 và Hoa Đỏ là một cặp tình nhân, ông xin được trên Hóc Môn. Hóa ra chó cũng có thể là tình nhân của nhau được. Suốt ngày đêm chúng quấn lấy nhau. Thế nhưng mà, ông chẳng thấy chúng nó... ấy nhau bao giờ! Giống chó, có kín đáo mấy thì cũng phải lộ ra  chứ, nó dai dẳng lắm, lâu lắc lắm, không nhanh chớp nhoáng "dễ dàng nhanh chóng, mọi lúc, mọi nơi" như giống người! Thợ Hồ là một con chó đói, từ đâu mò đến, thương tình ông cho ăn rồi ở lại. Cái giống lang thang có khác, nó sợ ông nhưng hình như nó không thân với ông bằng Mic-17, Hoa Đỏ hay A Còng. A Còng thì phải mua, hơn hai triệu bạc, giống chó Mítsubitxi. Nó là con chó cái, nhưng lại có vẻ mặt của một đạo sĩ. Đôi mắt che khuất sau mớ lông bờm, thế mà tinh anh đáo để. Mỗi lần nó mừng ông, A Còng lại lắc cái đầu hơi vuông để hé ra cặp mắt tròn, trong xanh như hai viên thủy tinh. Lúc đầu ông đặt cho nó là Tiểu Thư, nhưng thấy cũ quá, sáo quá, A Còng là cái tên thời thượng!
            Cuộc diễu hành buổi sang thế là xong! Một đoàn quân lũ lượt ra về trước sự thán phục của hàng phố. Nghiêm túc, trật tự và uốn éo tuần tự chui vào cổng! Từ bây giờ trở đi, mọi sự sinh hoạt phong phú, đa dạng và có nhiều bí hiểm đều diễn ra trong cánh cổng ngôi biệt thự số 6.
***
            Người ta thấy, ngoài ông Sáu Tính và bầy chó, chỉ có một người ngày nào cũng một lần ra vào cánh cổng biệt thự số 6 này. Đó là một thằng nhỏ, độ chừng mười lăm tuổi, chạy chiếc xe honda cũ xì. Tứ thời cái áo thun nó mặc trên người rõ ràng là màu vàng nhưng lúc nào cũng ngả màu đục thẫm, mặc dù có in một hàng chữ bằng tiếng Anh, sang trọng, hình như là một lời nguyện cầu may mắn.
            Mỗi lần nó đến, bánh trước chiếc xe lao xầm vào cánh cổng đánh động. Tức thì bầy chó đồng loạt sủa, nhanh nhảu và mau mắn nhất vẫn là cặp Mic-17 và Hoa Đỏ, rồi A Còng. Riêng Thượng Thư thì chỉ nghếch mõm lên cảnh giác và không chấp. Nó đã biết trước.
            -Ông Sáu ơi!
            Ông chủ lật đật chạy ra, mái đầu bạc lưa thưa, hơi cúi xuống mở cổng, dúi vào tay thằng nhỏ mấy tờ giấy bạc, rồi nhận lấy cái giỏ xách, khá nặng. Đó là một giỏ tạp pí lù chất đầy những xương heo, bạc nhạc bò, đầu gà... khẩu phần của chó, mà thằng nhỏ áo vàng đã gom được từ các sạp ngoài chợ. Không một lời chào hỏi, không hề có cám ơn, xin lỗi, một cuộc mua bán thầm lặng, chính xác và buồn tẻ. Chỉ có bọn "cẩu quan" trong ngôi biệt thự già nua là đánh hơi thấy, chả thế mà bọn chúng cùng rít lên, mừng rỡ tột cùng.
            Ông chủ đích thân - mà thực ra có ai cho ông sai bảo hay nhờ vả đâu-chế biến các món ăn rồi chia thành từng phần, tùy theo vóc dáng và công trạng của bọn chó. A Còng bao giờ cũng có phần ngon hơn, mềm hơn, bổ hơn và tất nhiên, sạch hơn! Sau đó là cặp nhân ngãi Mic-17 - Hoa Đỏ. Thượng Thư nhận phần ngay sau đó, nhưng hắn còn đắn đo, ý chừng để bọn đàn em xơi trước, âu cũng là phẩm chất của nhân vật quan trọng! Trong khi Thái Giám lờ đờ nhìn phần ăn của mình, thì Thợ Hồ lấm lét chờ đợi. Nó thè lè cái luỡi đỏ, đốm đen ra đến nử gang, đầy thèm thuồng và cầu thân. Khi cái bắt sắt thủng chất nghễu nghện những cục xương đầu gối đẩy về phía nó, Thợ Hồ dùng mõm đẩy xa têm chút nữa, xa hẳn so với đồng loại.
            Bấy giờ Thượng Thư mới thong thả ngoạm một một miếng thịt bò bạc nhạc, đó là món ăn quen thuộc và cũng là thứ khoái khẩu nhất của nó thường ngày.     Trong khi bọn chó đang cắm cúi ăn, thì cũng là lúc ông chủ bắt đầu một bài giáo huấn, cũng là thông lệ, về luân lý, về cách ứng xử ở đời, cách nhường nhịn nhau và tình bằng hữu, tất nhiên là của loài chó.
            -Thượng Tư này, tao thấy mày dạo này lười nhác lắm rồi đấy. Không chịu tập thể dục, lại còn hay đấm mõm A Còng!
            Hôm nay, ông sẽ nói về Thượng Thư, ông chủ bụng rồi. Mỗi ngày một đứa, cứ vào bữa ăn là ông lên lớp, có khi chân thành, mơn trớn, cũng có khi xỉ vả, hắt hủi, tùy theo tâm trạng của ông, và cũng tùy theo từng đối tượng mà ông nhắm vào. Thượng Thư là một con chó lai Berger, tuy lai, nhưng nó vẫn giữ được đầy đủ hình dáng và phẩm chất của một con chó nòi, to lớn, vạm vỡ và hung hãn.
            Ngày đó, khi đã có Mic-17 và Hoa Đỏ, nuôi Thợ Hồ, thiến Thái Giám, mua A Còng, ông vẫn muốn có một con chó thật to, thật oai, và thật trung thành để phong cho nó vai trò chỉ huy bầy chó của mình! Ông hỏi thăm, nhưng vì ông sống không có bạn nên chẳng biết hỏi ai, mà có hỏi đã chắc gì họ chỉ vẽ thật lòng. Ông chỉ còn một nơi để đến, đó là khu chợ bán chó, mèo, chim chóc... Ông cứ tha thẩn nhiều ngày mà không gặp, đã muốn nản lòng, bỗng ông thấy một gã đàn ông có cái miệng vêu vao ngồi xếp bằng trên hè đường, bên cạnh y là một con chó to, lông màu xám, phía dưới ức để lộ một mảng lông trắng, và một vệt đen. Ông nghĩ ngay đến một bộ complet xám, sơ mi cravatte sang trọng. Ông đến gần và ngắm con chó. Nó lơ đãng nhìn ông rồi lại nhìn người đi đường, hờ hững. Chủ của nó, gã mặt vêu nhìn ông, sau một hồi, đoán rằng ông thích con chó, y lên tiếng:
            -Ông già! Mua con chó này đi...
            Ông sực tỉnh:
            -Ừ, mua thì mua!
            Kẻ bán chó hết lời ca ngợi trí thông minh, lòng trung thành và sức mạnh của con chó lai. Đến nỗi, ông mê ngay, chỉ có điều, giá y hét rất cao: mười triệu! Một con chó ba tháng là ba triệu, chín tháng là năm triệu, đấy là loại con nít, phải tốn nhiều công sức và thời gian, tiền bạc để cho nó học tập. Con này đã hai tuổi, mười triệu là còn rẻ, bố già ạ. Phải bán nó, con đứt từng khúc ruột! Nhưng vì không có tiền cho thằng con ăn học, con phải xa nó... Vừa nói, y vừa lấy ống tay áo cáu bẩn gạt ngang hai giòng lệ!
            -Thôi được! Nhưng tôi chỉ trả anh tám triệu thôi đấy!
            -Không được, thiệt con quá! Con xin bớt bố hai trăm!
            Cuối cùng, ngã giá là chín triệu rưỡi! Khi chuẩn bị trao tiền, ông mới giật mình:
            -Nhưng... nhưng làm thế nào mà tôi dắt được nón về?
            -Bố yên tâm, kẻ bán chó nhanh nhảu, bố cứ trao tiền đủ cho con, con sẽ bảo nó. Quả nhiên, sau khi nhét những đồng tiền cuối cùng vào túi quần, kẻ bán chó, ông chủ của nó, tháo sợi dây xích, đặt vào tay ông và nói với con Berger lai:
            -Từ bây giờ, ông này là chủ của mày! Mày phải phục tùng ông chủ mới, nghe chưa!
            Khi ông nắm sợi xích thì lập tức, con chó nhổm đứng dậy, bước những bước nhanh nhẹn theo ông, mà không hề ngoái lại tỏ bày một chút quyến luyến về phía người chủ cũ của nó! Ông vừa mừng vừa kinh ngạc đến phát hoảng, nhưng ông chưa nghĩ ra được từ ngữ nào để đánh giá về nó, như sau này. Căn cứ vào phẩm chất, vai trò cũng như hình dáng của nó (bộ complet xám, sơ mi trắng, cravatte đen), ông đặt tên cho nó là Thượng Thư. Một cái tên sang trọng, lẫm liệt mà không sợ đụng chạm...
            -Này, Thượng Thư, mày có nhiều phẩm chất của loài chó, tao biết, và tao đánh giá cao về mày. Tao tự hào về mày lắm chứ! Mày là một con chó trung thành, nhưng... tao biết, mày không hề chung thủy!
            Thượng Thư ngưng nhai, nó có vẻ hiểu lời ông chủ, đôi mắt nó hướng lên, vằn những tia vàng, khó hiểu.
            -Ăn đi, đồ chó! Mày tưởng tao ngốc đấy hả! Ừ thì tao ngốc, nhưng tao ngốc với những ai kia, chứ với mày, tao biết rõ. Khôn oan đâu, con! Đấy, cái hôm tao bỏ ra chín triệu rưỡi để mua mày, tao tưởng khi phải xa ông chủ cũ của mày, mày sẽ buồn? Nhưng không, mày nhanh nhẹn theo tao, mà không hề lưu luyến người đã từng là chủ của mày?
            Thượng Thư lại cúi xuống ăn, nó không chấp ông. Cũng có thể nó thầm nghĩ thế này: loài người các ông rắc rối quá, rắc rối đến nỗi ngốc nghếch, ai là chủ mà chẳng được, miễn ông ta đối xử tốt. thế thôi!
            -Mày trung thành lắm, chẳng thế mà ngay sau đó, có một người đến gần vỗ vai tao định hỏi "mua con chó bao nhiêu tiền?", nhưng ông ta chưa kịp lên tiếng, mày đã nhảy xổ vào ông ta, ngoạm lấy cổ tay ông ta, để bảo vệ tao, vì mày tưởng ông ta là kẻ ám sát tao! Đáng khen, đáng khen lắm! Nhưng mày không hề chung thủy! Đò chó thật....
***
            Sau bữa ăn đầy những giáo huấn ấy, Thượng Thư có vẻ buồn. Nó nằm im, suốt ngày không sủa một tiếng. Và đêm ấy, một biến cố đã xảy ra. Như mọi đêm về sáng, ông Sáu, chủ ngôi biệt thự già nua nuôi một bầy chó làm bạn, trở mình thức giấc. Tuổi già, dù không bình thường thì cũng vẫn ít ngủ. Ông đợi mãi không thấy tiếng cào cửa của A Còng. Ông vẫn đợi, vì nghĩ, chắc nó có chuyện gì đó. Một lúc sau, cũng không thấy tiếng sủa của Thượng Thư. Sao nhỉ? Ông trở dậy, mở cuẳ phòng, nhìn ra thềm, ra sân, tuyệt nhiên không thấy bóng một con chó nào! Chúng nắm chết đâu cả rồi? Ông bật đèn và lùng sục mọi nơi, mọi ngóc nghách, cũng không thấy! Đên khi ông ra cổng, thì... hai cánh cổng mở toang! Ông hoảng hốt vào nhà, mọi cánh của phòng vẫn khóa chốt chắc chắn. Không có kẻ trộm, mà dù có thì cũng không mất bất kỳ thứ gì, trừ bầy chó! Ông vội vàng chạy ra nơi gốc cây mọi ngày, nơi ông vẫn đưa chúng đi làm vệ sinh. Tất cả đều vắng lặng, ngoài những đống chất thải của chúng từ ngày hôm qua!
            Ông có hỏi thăm mấy người hàng xóm, họ lắc đầu! Thế là Thượng Thư, A Còng, Mic-17, Hoa Đỏ, Thái Giám và cả Thợ Hồ cũng đã bỏ ông mà đi! Ông về nhà, nằm vật trên giường, nghĩ ngợi rồi phát ốm!
            Các con ông, vợ ông, và những cộng sự một thời của ông đã đến kịp để đưa ông về cõi thiên thu. Tôi có đi dự đám tang ấy. Trong lúc quan tài được đưa ra xe, tôi có nhìn xung quanh xem có thấy bóng dáng một trong những con chó đã ở bên ông suốt một thời gian cuối đời của ông không? Nhưng tôi đã thất vọng. Không một con chó nào bén mảng!
           
2003

           
           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét